.CẢM ƠN
Xin cảm ơn Cách mạng
Đã dạy cho tôi biết
Thế nào là căm thù
Vì đâu phải hủy diệt ?
Tôi đã thấm khổ đau
Và no đầy nhục nhã
Đêm dài nhìn bóng tối
Đối thoại với canh tàn
Tóc xanh hồ chớm bạc
Ngày trắng theo nhau qua
Tình đời bao ấm lạnh
Càng nghĩ càng xót xa
Cuộc sống này mệt quá
Kéo lê trong vũng lầy
Còn gì mà mơ ước
Cho ngày mai tới đây
Tôi buồn cho thân phận
Trót sinh ra làm người
Trong lỗi lầm thế kỷ
Tiếng khóc thay câu cười
Xin cảm ơn Cách mạng
Đã cho tôi làm thơ
Những vần thơ phẩn uất
Kéo dài đến bao giờ ?...
TẠ TỴ
SUỐI MÁU, 1976
3. XIN CHO TÔI
Xin cho tôi được khóc
Vì thân phận làm người
Với chuỗi dài ngày tháng
Oán thù bao giờ nguôi ?
Xin cho tôi khỏi nhớ
Những ngày vui hôm qua
Vì cánh chim đã gẫy
Giữa lương tâm mù lòa !
Xin cho tôi được biết
Vì đâu mãi cách xa
Căm thù vây lưới thép
Chia đôi giọt lệ nhòa !
Trời nơi đây quá thấp
Lớp lớp rừng kẽm gai
Tình nơi đây uất nghẹn
Chìm trong tiếng thở dài
Cơm, rau ngày hai bữa
Quẩn quanh những bước đi
Tối nằm lưng ôm đất
Khổ đau có nghĩa gì ?...
Bạn bè cùng số phận
Ngó nhau như bầy ma
Tâm sự nào cay đắng
Tâm tư nào thiết tha ?
Đêm dài không mở cửa
Chuyền môi khói thuốc cay
Nhớ nhà buồn đứt ruột
Người ơi người có hay?
Thôi, xin thôi giọng hát
Hãy im đi lời than
Cuộc chơi trót lầm lỡ
Sá gì nỗi hợp tan
Xin cho tôi, cho tôi
Dẫu chỉ một lần thôi
Trở về miền đất hứa
Trước khi mất cuộc đời!...
TẠ TỴ
SUỐI MÁU, 1976
4. NÚI RỪNG
Ở đây những núi cùng rừng
Trời nghiêng lũng thấp , nửa từng mây che
Núi cao, ngăn bước nẻo về
Rừng sâu khép kín cơm mệ cuối đời
Xa vắng quá bạn bè ơi !
Màu xanh khoả lấp chân trời nhớ thương
Lỡ tay đánh mất Thiên đường
Xác chìm Địa ngục còn vương dáng hồng
Xin đừng đợi , cũng đừng mong
Hận thù khép kín một vòng thời gian
Đầm đìa lệ nến tuôn tràn
Đêm đêm hồn nhỏ băng ngàn về xuôi !
TẠ TỴ
YÊN BÁI, 1977
5. HÃY TRẢ LẠI TÔI, SAIGON NẮNG VÀNG ... *
Hãy trả tôi, Saigon với nắng vàng rực rỡ
Cùng bóng hàng cây bên hè phố thân yêu
Hãy trả lại tôi, những vóc dáng diễm kiều
Những đôi mắt hồ thu xanh biếc ngọc
Hãy trả lại tôi, những dòng sông trên sóng tóc
Những nụ cười thơm ngát tuổi thanh xuân
Hãy trả lại tôi, đôi cánh Thiên thần
Từng bay lượn khắp vùng trời Nghệ thuật
Hãy trả lại tôi, những khu vườn ươm ngát
Để bướm vàng nô giỡn với ong tơ
Mỗi phút trôi qua là một bất ngờ
Như mưa nắng không chờ mà hội ngộ
Hãy trả lại tôi, những vòng tay rộng mở
Giữa cuộc đời đón nhận chuyện yêu thương
Hãy trả lại tôi những phố, những phường
Những bồn cỏ Công viên bốn mùa tình tự
Từ đỉnh cao tiếng hát thấm vào tim
Tiếng hát lênh đênh, tiếng hát nổi chìm
Len nhè nhẹ như lời ru của mẹ
Hãy trả lại tôi, những giấc hồng tuổi trẻ
Những tiếng chân bước khẽ dưới trời đêm
Hãy trả lại tôi, những vạt áo tơ mềm
Bay phơ phất uốn mình trong nắng sớm
Hãy trả lại tôi, những nỗi buồn mơn trớn
Những lời yêu gờn gợn giữa bờ môi
Saigon ơi, xa vắng đã lâu rồi
Quá thương nhớ, hồn tôi rừng rực lửa
Hãy trả lại tôi , hôm nay và ngày mai nữa
Những ước mơ chưa toại nguyện sông hồ
Những hẹn hò chưa kết đọng thành thơ
Những trầm lặng đợi chờ cơn bão tố
Hãy trả lại tôi, những cuộc tình dang dở
Nỗi buồn vui khép mở cánh thời gian
Hãy trả lại tôi, từng đoá mai vàng
Mỗi Xuân đến, cả Saigon trẻ lại
Hãy trả lại tôi, bây giờ và mãi mãi
Những thứ gì đã mất tự hôm qua
Hãy trả lại tôi, cuộc sống hiền hòa
Của thành phố Saigon còn phong nhụy
Tôi đang sống với rất nhiều suy nghĩ
Mất Saigon là mất cả đời tôi
Saigon ơi, cách biệt đã lâu rồi
Hãy trả lại những gì tôi mơ ước
Hãy trả lại tôi những ngày vui thuở trước
Những đêm dài thao thức trắng không gian
Hồn bâng khuâng chết lịm giữa cung đàn
Chiều mở cửa tơ vàng giăng nến điện
Hãy trả lại tôi, những dấu chân kỷ niệm
Đường học trò nhịp guốc gõ âm vang
Hỡi em yêu, mộng cũ có phai tàn
Có khô héo theo thời gian mòn mỏi ?
Tôi ở đây vẫn luôn luôn chờ đợi
Một ngày nào trở lại phố phường xưa
Saigon ơi, thương nhớ mấy cho vừa !...
TẠ TỴ
LÀO CAI, 1977
-------
* tựa chính bài thơ : Hãy trả lại tôi. ( BT )
6. MÙA XUÂN KHÔNG CÓ NHAU
- Khi mùa xuân bay cao trên rừng trên vùng trời cẩm thạch
Khi lòng em rạo rực như lòng suối băng xa
Khi mắt nhắm hồn mơ vòng tay ấm
Khi môi chờ hơi thở hiền hòa
Thì tại sao không có anh bên cạnh
Đã mấy mùa rồi mưa nắng đi qua
Trong đêm tối em nhìn thời gian trôi lùa kẽ hở
Nhìn đời mình tẻ nhạt khô cong
Nhìn nhan sắc tàn phai theo ừng bông hồng rã cán
Không có anh, em biết lấy gì để che cơn gió lạnh
Bàn tay nào dìu em trốn cô quạnh đêm nay
Anh không về, ngày nối tiếp ngày
Chôn dĩ vãng trong mắt hờn ứa lệ
Em chờ anh, chờ anh lâu quá thế
Ngục tù nào giam giữ được tình ta?
Vẫn hằng đêm em nằm kề gối mộng
Em ôm anh trong giấc ngủ nhạt nhòa
Anh không về, giường chiếu cỏ mọc hoang vu
Và hồn em trong suốt thủy tinh
Chợt tan vỡ, xô nghiêng trời ảo ảnh
Cùng dư ba cay đăng một cuộc tình !...
-Anh chưa về vì mùa Xuân không còn nhân ái
Hoa trái lên hương không phải báo tin yêu
Đường phố hôm nay xuôi ngược một chiểu
Quen hay lạ, nhìn nhau đều ngơ ngác
Mộng hôm trước hôm nay đổi khác
Nên lòng buồn man mác cùng mây bay lang thang
Anh ngồi đây, đêm đêm đối diện với canh tàn
Mắt im sững ngó không gian tù ngục
Có muôn vạn mũi kim đâm xuyên lồng ngực
Ôi, mùa Xuân nào vui trong ký ức đơn sơ
Đã trở về anh, như một giấc mơ
Một hạnh phúc nữa vùi trong cơn đau úp mặt
Thì còn đó, thời gian ngăn ngắt
Anh ôm vào lòng như con thú giành ăn
Như kẻ khát chát chiu từng giọt nước
Như con thuyền nhớ bến cũ xa xăm...
Anh chưa về vì mùa Xuân nơi đây mây mù nặng chĩu
Lớp lớp kẽm gai ngăn lối mộng đường dài
Với hận thù phủ kín bóng tương lai
Với tủi nhục làm hồn anh chai đá !...
Đã từ lâu, anh biến thành người khách lạ
Giấu đời mình trong kỷ niệm không hề phai .
TẠ TỴ
NGHĨA LỘ, 1977
7. TA ĐỂ LẠI
Ta để lại những gì cao đẹp nhất
Đã kết tinh bằng huyết lệ hồn ta
Nét vẽ siêu thần không bao giờ mất
Với sắc màu diễm tuyệt chẳng phai nhòa
Ta để lại bao dòng thơ diễm ảo
Như nước nguồn réo rắt tự triền cao
Nếu mai mốt gió về gây giông bão
Tiếng thơ buồn bay vút tới Trăng, Sao
Ta để lại từng lời văn óng chuốt
Dù chuyện đời muôn thuở vẫn bi thương
Trái tim héo và bàn tay giá buốt
Bút mực chênh vênh, tâm sự chán chường !
Ta để lại những ngày tù gian khổ
Những đêm dài đối diện với hư không
Mỗi miếng cơm là một dòng lệ đổ
Mỗi sát-na là một khắc hãi hùng
Ta để lại một cuộc tình dang dở
Bao năm rồi nước mắt vẫn chưa khô
Hình ảnh cũ đi về trong giấc mộng
Nơi xa kia, ai đợi với a chờ ?...
Ta để lại bạn bè nguyên vẹn đó
Chuyện vui buồn theo ngày tháng qua đi
Còn kể chi màu xanh hay sắc đỏ
Có nhớ thương nhau cũng chẳng ích gì !
Ta để lại một vùng trời rực rỡ
Một vườn đời rộn rã tiếng chim ca
Một bông lúa và cành hoa dang dở
Một kiếp người, cùng Họ, tên ta ...
TẠ TỴ
CHINÉ , 1980
tạ tỵ
Tạ Tỵ was born in Hanoi on 24 September 1922, one of eight children. He studied painting at the Ecole de Beaux -Arts de l' Indochine and graduated in 1943. After the Vie^t Minh's in 1945 defeat of the Japanese in nothern Vietnam in 1945, Tạ Tỵ, along with many other artists, joined the resistance against to the French and moved to Thanh hoa province. In the art section of Resistance Zone III, he worked alongside other artists including Bùi xuân Phái, Nguyễn văn Tý and Nguyễn sĩ Ngọc , as well as musician Văn Cao and writer Đào duy Anh. He continued to paint and exhibit his works, including and exhibition in the resistance zone in 1948. Tạ Tỵ's first solo exhibition of 20 cubist paintings was held in Hanoi in 1951; it generated great interest and was boths priased and critised alike.
In 1953, Tạ Tỵ was conscripted into the army of emperor Bao Dai's government and moved south to Saigon, where he trained to become an anti-tank artillery officer. he fought with the 13 th Regiment stationed in Can tho before joining the psychological unit of the General Staff. In the 1960s Tạ Tỵ's art progressed from cubism to abstraction, a movement that he would explore for the remainder of his days. He held solo exhibitions in Saigon in 1956, 1961, 1966, he prepared a series of 50 portraits of southern culture figures for an exhibition intended for 1965. It was the first series of 50 portraits of portraits made in Vietnam adapted a unique special style to reflect the personality and career of each character, though the exhibition was cancelled at the last moment.
Tạ Tỵ left the army of the South Vietnamese regime in 1972 but after war ended in 1975, as a former military officer, he was imprisoned in a reducation camp in the north of Vietnam for six years. On his release in 1981, he and his wife [Nguyen thi Hoa] escaped Vietnam by the sea to Malaysia and resetlled in California in 1983. Ta Ty returned to Vietnam only shortly before he died on [24 april] 2004 . witness collection
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét