23 tháng 10, 2012


Chân trời biên giới, gặp lại bạn hay thù

Huỳnh Tâm (Danlambao) - “...Trong chiến tranh ngày 17/02/1979 nó có nhiều mặt, mục tiêu cuối cùng là chiếm cho bằng được nguồn nước và cao điểm chiến lược, đó là hai yếu tố mạnh nhất của Bắc bộ Việt Nam... Tại điểm đứng của chúng ta, bọn Trung Quốc đã chiếm một đoạn dài biên giới sông Hồng Hà tỉnh Lào Cai, và Hà Giang của Việt Nam. Họ đã thành lập Hồng Hà thị thuộc tỉnh Vân Nam, và tương lai một phần sông Hồng Hà tại tỉnh Quảng Ninh Việt Nam sẽ là Hồng Hà cảng của tỉnh Quảng Tây. Từ thượng nguồn cho đến hạ nguồn sông Hồng Hà hoàn toàn thuộc về Trung Quốc, Việt Nam chỉ còn lại một rẻo đoạn sông Hồng Hà khu vực Hà Nội, Trung Quốc làm chủ nguồn nước thượng nguồn, họ sẽ thực hiện chính sách lớn trong một vai trò hàng đầu về kinh tế.” 

Đỉnh núi Chăn Ngựa cao vòi vọi, đường vòng ngoẹo như màng nhện, tay lái xe đạp lúc nào cũng nương theo sườn núi, chui vào sương mù, tưởng chừng đang cởi trên mây, ra khỏi sương mù nước đọng lại ướt cả người. Từ xa vọng lại tiếng người Việt ở dưới chân đèo: "Mời quý bạn nghỉ ngơi ăn cơm trưa". Tình cờ nơi đây có làng người Việt tị nạn, nhưng chưa biết họ đang sống tại trung tâm đèo núi biên giới về hướng Nam sông Hồng Hà, hay dưới thung lũng đã trải qua biết bao đau thương quá khứ của chiến tranh. Cuộc đời của con người ở đất nhờ đất không chảy theo sự tự nhiên của sông Hồng, con người sống theo thời gian, sông Hồng sống theo thiên nhiên đã bao đời vẫn thế, nếu đôi khi có thăng trầm do mùa nước lũ và mùa hạn hán, về con người nếu không có chiến tranh thì ở nơi này thanh bình biết mấy. 

Sông Hồng Hà phía đông-nam giáp Vân Nam với đường ranh giới tạm thời hơn 193km. Chúng tôi đã lặn lội từ hướng đông qua hướng tây tỉnh Vân Nam trên 128 làng xã, nếu tính từ biên giới Quảng Tây đến Vân Nam có 512 làng, tọa lạc 16 quận huyện bên biên giới Trung Quốc.

Trên đường đi, chân đạp xuống đất của quê hương, tôi có ít nhiều suy nghĩ về lãnh thổ của ông cha đã tạo ra, và nuôi dưỡng trong một chiếc nôi văn hiến Bách Việt. Tiếc rằng quê hương mình sống gần láng giềng người Trung Quốc, mà không có sức mạnh, như thời này, dưới chế độ CSVN mất hết ý chí để giữ nước, cho nên một phần biên giới không còn thuộc lãnh thổ của Việt Nam. 

Dưới thung lũng một con sông tên Hồng Hà quá đẹp, hướng nam đất nước Việt Nam thân yêu, hướng bắc thuộc về Trung Quốc, cả hai quốc gia, chia sẻ chung sống với thiên nhiên, nhưng lạ thay đảng CSTQ lúc nào cũng muốn lấy sông Hồng Hà làm của riêng, bởi thế một phần sông Hồng Hà thuộc tỉnh Hà Giang bị định hai bề cõi. Họ dấy binh vào ngày 17/02/1979 dưới sự chỉ huy của Sư đoàn 189 thuộc Quân đoàn 14 và Lữ đoàn 123 Quân đoàn 41 Trung Quốc, tự dưng địa danh này nổi lên cuộc chiến đẫm máu, biến ngọn núi Việt Nam trở nên bình địa, đến nay vẫn còn cằn cỗi. 

Trung Quốc đã dự trữ quân nhu, quân cụ, trong hai năm liền, chuẩn bị chiến tranh biên giới với Việt Nam. Trên bàn chiến lược của Bộ quốc phòng Trung Quốc đã có quyết định chuyển đổi địa danh sông Hồng Hà. Mãi đến tháng 4 năm 1984 họ mở cuộc giao tranh ác liệt với dân quân Việt Nam, cuối cùng Sư đoàn 189 chiếm được địa danh này và lập ra làng người Việt tị nạn ở đây, lấy tên Sư đoàn 189 làm tên làng. 

Trong chiến tranh kẻ nào xem dân không bằng một con trâu già, sẽ bị thua trận, do đó đảng CSVN dâng núi Chăn Ngựa cho Trung Quốc cũng là một cách chôn vùi địa danh này không hề tiếc! Phần núi chiến lược lãnh thổ của Việt Nam kể từ đây chào Tổ quốc vĩnh viễn ra đi, thuộc về của Trung Quốc. 

Đỉnh núi Chăn Ngựa. Ảnh: Nhất Biến 

Được biết trong làng dân cư có nhiều nhóm sắc tộc khác nhau, nó trộn lẫn chung sống, nào là Hán, Miêu, Đại, Zhuang, Yao, Buyi, Yi Jing, và 324 người Việt, tất cả sống cùng tâm trạng đã trải qua chiến cuộc, nhờ vậy tạo được bản sắc riêng, qua tình người với sự gắn bó và giúp đỡ lẫn nhau. Đời sống hằng ngày khai khẩn đất hoang, trồng trọt hoa màu ngắn hạn để sống qua ngày, xây dựng ngôi nhà mới trên mãnh đất cũ nay do người mới làm chủ (Trung Quốc). Dân số của làng 189 cả thảy 2.942 người Việt tị nạn định cư, muốn vào làng phải qua sự giám sát của Sư đoàn 189, bởi vậy ở triền núi này có hai tên 189, chỉ có người tị nạn mới biết đường vào làng. 

Tôi vô tình đi qua ngôi làng 189, mới biết nơi này có chị Trang và Mỹ Châu, hai người thân nhất đang ở đây, cảnh vật và con người chung sống trong một thế gian, thế mà ai biết sự biệt lập với bên ngoài gần như ngạt thở! 

Chúng tôi, đứng trên lưng núi nhìn tứ phía xem cảnh tình quê hương, anh Bá đưa tay lên chỉ nói: 

- Điểm đứng này, trên lưng núi cao trên 3.000m, đằng xa là chiến lũy biên giới vòng thứ 3, chạy dài từ Quảng Tây qua Vân Nam, những con rắn chiến lũy của Trung Quốc nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam, không khác nào một hiểm họa hôm nay và mai sau chưa biết nó sẽ đến lúc nào? 

Trung Quốc chiếm một vùng núi cao của Việt Nam, đặt phòng ngự. Ảnh: Nhất Biến 

Đối diện với chúng ta, đĩnh núi A thuộc tỉnh Lào Cai, ở đó là chiến lũy biên giới vòng 3 hoàn toàn do Trung Quốc kiểm soát, Trung Quốc tự phân định chủ quyền lãnh thổ thuộc về họ và họ tranh thủ thời gian xây dựng nhiều pháo đài kiên cố. 

Chiến lũy Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam. Ảnh: Nhất Biến 

Còn phía đông, những đĩnh núi của tỉnh Hà Giang, cũng là chiến lũy vòng 3 của Trung Quốc nối dài vô tận, đứng đây mới thấy đảng CSVN hoàn toàn không có ý chí đối đầu quyết liệt với địch, không một cản trở nào để hy vọng giành lại từng đồi núi một, riêng Trung Quốc, họ không chịu bò chuộc, bởi địa danh C là cột trụ của quần thể núi cao Hà Giang, làm chủ được nơi này, sẽ kiểm soát toàn diện Đông-Tây, Việt Nam. Chúng ta đứng ở đây vẫn nghe được tiếng đạn pháo và thấy khói lửa chiến tranh đang diễn biến. 

Một chiếc xe đạp từ trên đèo xổ xuống với tốc độ nhanh, vụt chốc đã qua khỏi sườn đèo, chúng tôi vẫn đứng xoay mặt về hướng Nam, mải miết nhìn từng cột khói của đạn pháo và đôi mắt chú ý, đếm từng đường trắng chiến lũy, nhất là không thể đếm hết chiến hào. Bỗng người đi xe đạp vừa vụt qua, quay đầu trở lại, đạp xe lên dốc, gọi thật to: 

- Trọn Vẹn. 

Tôi nghe hai tiếng Trọn Vẹn thay vì gọi (Viên Dung) chỉ có bạn thân mới gọi như thế, lòng không thể ngờ tại đầu núi chân mây này, lại có cái tên trùng hợp, đương nhiên tôi lo ngại, nhất định không xoay lưng lại, xem như từ chối cái tên (lóng). 

Y lại gọi đích danh: 

- Có phải Viên Dung không? 

Lúc này buộc lòng tôi phải xoay lưng lại, trả lời: 

- Chính tôi, và anh là ai? 

Thực sự tôi không nhận diện được y là ai, vì chân dung gầy, da ngâm có nhiều dấu sạm nắng, y ngồi trên xe đạp như một ký giả chiến trường sống với gió sương. Y nói: 

- Thực sự Viên Dung không còn nhớ tôi hay sao? 

- Thưa anh, ở xứ Trung Hoa này có đến 1,3 tỷ người làm sao mà nhớ hết, vả lại người Việt ở xứ Tàu này, tôi chỉ quen có vài người, chính họ còn không biết tên riêng của tôi, thế thì làm sao anh biết bút hiệu cúng cơm của tôi? 

Y cười rồi đáp: 

- Hà hà... thì ra tôi đã thay đổi diện mạo quá nhiều, cho nên bạn không nhận ra là phải, chính tôi là Nhất Biến đây, phó tổng biên tập Hoa Văn báo, ngày trước ở đường Hồng Bàng Chợ Lớn. 

Từ lúc này trong tôi có hai phần hồn phách nửa sợ, nửa vui không biết phải chọn phần nào, nay tình cờ chạm mặt Hao Văn báo, trong lòng suy nghĩ vu vơ: "Thì ra thằng này là Trung Cộng chính hiệu, thế mà tung tích của y mình không hề biết, bây giờ đã muộn màng, nếu như nạp thân cho y không biết mình sẽ đi về đâu, hy vọng mọi việc sẽ tốt không bị lộ, phần thì sợ chuyến đi này trở thành vô tích sự, người thân đang kẹt trong "lồng chim" Trung Quốc. Chưa kịp cứu ai cả, mình đã mất xác trước". Tôi liền đáp: 

- Thì ra anh là Nhất Biến, đúng như hình học đổi dời nhiều góc cạnh vẫn là Nhất Biến, quả nhiên anh đã thay đồi chân dung quá nhiều, nên tôi không thể nào nhận diện ra anh, xin lỗi và cảm ơn anh còn nhớ đến Viên Dung. 

Nhất Biến đáp: 

- Tôi thẳng thắn nói với bạn, tôi chỉ là Trung Cộng giấy, bạn đừng áy náy, cần gì tôi sẽ đứng sau lưng của bạn, nhân dịp tôi mời bạn đến doanh trại Sư đoàn 189 để tôi hậu đãi cố tri và quý anh của bạn. Chúng ta là bạn có quá khứ đẹp không mất, cứ tin tôi bạn đừng sợ. 

Tôi nghe Nhất Biến mời đến doanh trại Sư đoàn 189 không khác nào một hung tin đưa đến, xem ra đường cụt đụng đầu vào vách tường, liền đáp: 

- Cảm ơn anh Nhất Biến có nhã ý tốt, nhưng tôi muốn vào làng 189 thăm viếng người Việt tị nạn, trong đó có vài người thân, rồi đi nơi khác vì không có thời gian nhiều. 

- Hình như Viên Dung có ý từ chối lời mời của tôi, lời mời chân thành không đem bạn vào chỗ chết đâu, tôi biết sau 13 năm gặp lại mỗi người sống tùy hoàn cảnh, nhưng ở nơi tôi thì chân thành là chính, lúc nào cũng trân quý bạn, một lần nữa tôi nói thẳng thắn chúng ta không phải là người của hai chiến tuyến, vả lại bạn đang thân với hai người anh đã từng là MTGPMN, còn tôi bạn xem như người xa lạ, như chưa bao giời biết nhau, thử hỏi những lúc chuyện vui bạn có quên tôi không, những lúc lên khuôn chữ báo, bạn có cảm xúc về tôi không? 

Tổng biên tập Hoa Văn báo. Ảnh: Huỳnh Tâm 

Trước 1975 dưới chế độ VNCH, tại Chợ Lớn có 11 nhật báo Hoa ngữ, chưa kể báo định kỳ và báo Xuân v.v... y là một trong những tổng biên tập Hoa Văn báo. Quả thực hôm nay tôi khó hiểu về Nhất Biến, y sinh quán Chợ Lớn, cha Việt, mẹ Hoa, bây giờ có mặt ở đây, tôi càng không biết y đang làm việc gì! Và càng không biết lý do nào Nhất Biến trở thành phóng viện chiến trường biên giới Việt Nam-Trung Quốc. Tôi không yên tâm cuộc gặp gỡ này và lời mời không chừng hậu ý, đời tôi phải ngã gục tại nơi này ư. Tôi phải đáp làm sao cho phải tình của y: 

- Thưa anh Nhất Biến, làm sao tôi quên được những lúc anh loan tải những tác phẩm của tôi, khi ấy anh thường mời tôi đến tòa soạn để cụng ly lai rai vài chỉ rượu với khô bò hay khô mực. Anh còn bình phẩm nghệ thuật ảnh của tôi, theo văn trào phúng xã hội, vui ấy có thể nói chết đem theo không thể chia sẻ cho ai được, nay gặp lại anh tôi rất vui mừng ngày hội ngộ ở xứ người, tất cả thứ ấy tôi đều để trong lòng. Tôi có nhiều lý do không thể ở đây lâu được, nếu anh cho địa chỉ, tôi sẽ đến thăm anh và hàn huyên nhiều hơn. 

Nhất Biến lấy một danh thiếp đưa tôi, nói: 

- Bây giờ bạn đi đâu tôi theo đó, bạn nhớ rằng trên chiến lũy vòng 1 này, lắm chông gai, bạn không bỏ mạng thì cũng tàn phế, đó là chưa kể bạn đến chiến lũy vòng 2 và chiến lũy vòng 3, hai chiến lũy đó chỉ có bỏ mạng chứ không hy vọng tàn phế. 

Tôi thở dài đáp: 

- Thưa anh Nhất Biến, đúng như lời anh nói, tôi đã đứng trên trái đạn và bị nổ tung thành một cái hố sâu, bằng mồ tập thể trên 3 quân nhân Trung Quốc. 

Mọi người cùng cười vì anh Linh, anh Bá, Nhất Biến đồng Hoa đỏ cả. Nhất Biến nói: 

- Theo ý tôi, đề nghị chúng ta cùng đi trước, đến doanh trại Sư đoàn bộ binh sơn cước 189 nhé? 

Anh Linh đáp: 

- Không được, Viên Dung phải tranh thủ đi sớm về sớm, nếu vào đó thì bao giờ mới đến nơi thăm anh Trương Hoán Tùng. 

Tôi đề nghị: 

- Thôi thì vào làng thăm chị Trang, cô Mỹ Châu rồi tính ra sao cũng được, đã lỡ đò không nỡ nào chúng ta cùng lội qua sông sâu. 

Nhật Biến đáp: 

- Nhất Biến có ý kiến này, có thể dung hòa và không lỡ chuyến đi của Viên Dung, chúng ta đồng vào làng 189 thăm người thân của Viên Dung, nhân dịp tôi giới thiệu người bạn trẻ tên Lều Hà Chỉnh, nguyên Trưởng làng 189, sau đó đến doanh trại Sư đoàn 189. À trước đây tôi cũng là đàn em của anh Trương Hoán Tùng, dịp này chúng ta cùng đi Tây Hành làng bằng xe hơi của Sư đoàn 189, do tôi làm tài xế. Viên Dung và quý anh hãy an tâm nhé? 

Từ lúc gặp lại Nhất Biến, mãi đến lúc này, vẫn nghi ngờ sự tốt của y, tôi chưa thể mở lòng đón nhận giao tình không hẹn trước, bởi người CS lắm mưu, nhiều mẹo và mọi việc làm của họ đều nằm trong tính toán, như trước đây tôi biết rất ít vế đời sống của Nhất Biến, y độc thân, sống chân tình với bạn bè, yêu nghệ thuật, y chưa làm phiền lòng ai, những bài viết của y miêu tả sinh hoạt cộng đồng người Hoa [1] nhưng y là một tổng biên tập không có lý do nào chỉ một bút hiệu, một ký giả bình thường còn có nhiều bút hiệu khác nhau để viết nhiều đề tài. Hoa Văn báo cũng không ngoại lệ, nếu tìm hiểu chủ trương thấy nghiêng về Hoa kiều [2] còn Hoa vàng hay Hoa mất gia phả, chỉ là hình thức đệm cho trang đầy cột báo. Tôi chỉ nghe qua bạn bè nói về gốc tích của y có hai dòng máu, cha Việt, Mẹ Hoa, càng khó hiểu nguyên nhân nào y vào đảng CSTQ. Hy vọng lần này tôi sẽ tìm ra nguyên nhân, bởi y vô tình cho biết y là đàn em của anh Trương Hoán Tùng, và y còn cho biết thân làm Trung Cộng giấy. 

Chúng tôi cùng đi vào làng 189, trên đường đi Nhất Biến cho biết: 

- Tại điểm đứng của chúng ta, bọn Trung Quốc đã chiếm một đoạn dài biên giới sông Hồng Hà tỉnh Lào Cai, và Hà Giang của Việt Nam. Họ đã thành lập Hồng Hà thị thuộc tỉnh Vân Nam, và tương lai một phần sông Hồng Hà tại tỉnh Quảng Ninh Việt Nam sẽ là Hồng Hà cảng của tỉnh Quảng Tây. 

Từ thượng nguồn cho đến hạ nguồn sông Hồng Hà hoàn toàn thuộc về Trung Quốc, Việt Nam chỉ còn lại một rẻo đoạn sông Hồng Hà khu vực Hà Nội, Trung Quốc làm chủ nguồn nước thượng nguồn, họ sẽ thực hiện chính sách lớn trong một vai trò hàng đầu về kinh tế. 

Trong chiến tranh ngày 17/02/1979 nó có nhiều mặt, mục tiêu cuối cùng là chiếm cho bằng được nguồn nước và cao điểm chiến lược, đó là hai yếu tố mạnh nhất của Bắc bộ Việt Nam. Việt Nam bị mất một vùng đại lý chiến lược hàng đầu tại biên giới, xem ra Việt Nam ngày nay không khác một phế nhân. 

Chiến tranh đồng bằng, bọn Bắc Kinh xua quân vượt rừng, xuyên núi qua sông, tràn xuống đồng bằng chiếm 6 tỉnh, thị xã của Việt Nam và phá cho tan hoang đúng một tháng. Sau đó tung ra chiến thuật rút lui an toàn, bởi vậy Việt Nam ngơ ngáo không hiểu tại sao Trung Quốc lại ngưng chiến ở đây mà không tiến xuống Thái Nguyên rồi đến Hà Nội, rất tiếc tôi không hiểu những cái đầu của những nhà chiến lược suy nghĩ những gì, chứ thực trước mắt tôi đã thấy bản đồ lên kế hoạch tiến công Hà Nội, trước đó mình cũng hiểu ít nhiều về chiến thuật "dương đông kích tây" đã định trước một kế hoạch biến trận của tên Đặng. 

Nhớ lại 8 năm trước tôi trầm mình tại dòng sông Kỳ Cùng. Nguồn ảnh: Nhất Biến 

Việt Nam trong tôi có một người cha để nhớ để thương, mỗi khi tôi nhìn về quê hương có lẽ phải sám hối cả đời, nước sông Hồng Hà cũng chê bai tôi khó rửa sạch, vì dơ bẩn ở trong lòng chứ không phải ở ngoài da, và trong tôi có biết bao sự đau thương khác như mẹ già sống cô đơn, cha già không biết lưu lạc ở nơi nào! Cái áo ngoài của tôi chỉ là thứ sống ảo, khi nào tôi sẽ nói hết cho Viên Dung nghe! 

À trở lại chuyện chiến tranh, sau khi quân Trung Quốc rút lui, theo lệnh ngưng chiến, đảng CSVN tự dưng cài mìn vào cây cầu thị xã Lạng Sơn tại sông Kỳ Cùng, cho sập để quân Trung Quốc không có đường trở lại, đúng là ấu trĩ về chiến thuật, vô tình đảng CSVN cho người ta biết sự yếu kém của mình. CSVN còn nhẫn tâm hơn nữa, tôi không tưởng tượng được cảnh tiêu diệt nhân dân Việt Nam, họ cam tâm lùa nhân dân đến miệng quân Trung Quốc, đôi tay đảng, dâng lên nhờ địch tiêu diệt đồng bào biên giới của mình, đúng là dân của mình chết vì địch nội ứng trong nhà. 

Ngày 17/02/1979. Cảnh loạn ly tại biên giới dòng sông Hồng Hà. Ảnh: Nhất Biến 

Một số lượng lớn người Việt Nam đẩy qua biên giới Trung Quốc. trong thời gian này thường dân vô tội chết vì chiến tranh khá nhiều. Trung Quốc lợi dụng người dân Việt Nam tràn qua biên giới đẩy mạnh chiến trường "phản công tự vệ" lên tầng chiến lược. Ngày 18/04/1979 Trung Quốc chính thức đưa người Việt Nam vào chương trình "người Việt tị nạn" biên giới. 

Tôi lắng nghe Nhất Biến nói nhiều điều chiến tranh tại biên giới, hình dung trong con người này có những uẩn khúc nào đó, và hỏi: 

- Thưa anh Nhất Biến, anh đã từng đi khắp 3 vòng chiến lũy của Trung Quốc, tại chiến trường trong lãnh thổ Việt Nam, vậy Bắc Kinh mở cuộc chiến tranh biên giới trên danh nghĩa "phản công tự vệ", có phải Việt Nam chiếm biên giới của Trung Quốc trước ngày 17/02/1979, bởi vậy Trung Quốc mới tự vệ, theo suy nghĩ của anh thế nào? 

- Hì hì... bọn Bắc Kinh quá lếu láo, thử hỏi trước và sau ngày 17/02/1979, Việt Nam có chiếm một phân ly đất nào biên giới của Trung Quốc đâu, hai nữa những Quân đoàn Việt Nam đang tham chiến tại Campuchia, chỉ để lại hậu cứ một Trung đoàn, như Quân đoàn 1 Cao Bằng, Lạng Sơn biên giới phía Đông. Quân đoàn 2 Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang biên giới phía Tây, Quân đoàn 3 Quảng Ninh biên giới Đông và vinh Bắc bộ. Một biên giới rộng lớn cửa mở, thế mà Đặng Tiểu Bình la lớn tiếng "phản công tự vệ". Đặng Tiểu Bình chỉ bịp được người điên, hai đảng CSVN và TQ bịp được hai dân tộc VN-TQ chứ nào bịp được Quốc tế. 

Tôi rất tiếc rằng Việt Nam bị mất quá nhiều sông, núi, đất liền biên giới kể cả người đã chết lẫn người đang sống, tôi tin chắc chắn Viên Dung đã đi trên chiến lũy này thì phải gặp vô số mồ tập thể của người Việt mình, đảng CSVN vô thừa nhận người lính hy sinh bảo vệ biên giới vì Tổ quốc. Nếu có dịp Viên Dung vào chiến lũy vòng 2 và 3 thì sẽ thấy chiến tranh quá bất nhân với con người, địch ta chết cùng một mồ! Còn bọn đảng trưởng CSVN và TQ hẹn nhau cụng ly, như Hennessy, Rémy Martin (V.S.O.P và X.O), Chivas Regal 12, 18, 21, Martell X.O, Jack Daniel's, Clebmorangie, Absolute… chúc mừng nhau mạnh khỏe, nhởn nhơ, miệng cười nhe răng như bầy cáo. Nói chung hai đảng CSVN và Trung Quốc đã thỏa thuận ngầm từ trước chiến tranh 1979, và Việt Nam phản đối chiếu lệ, một cách tránh né che mặt nhân dân Việt Nam mà thôi, chúng ta là một trong toàn thể nhân dân bị cuốn vào trò chơi của chúng. 

Trong cuộc chiến này, Việt Nam mất nhiều tài nguyên thiên nhiên đang nằm dưới lòng đất chưa khai thác, và danh lam thắng cảnh một thiên đàng tại thế. Nào bạn nhìn kìa, cảnh đẹp của sông Hồng Hà trước mặt, có dịp hãy chiêm ngưỡng đi? 

Một buổi chiều, đầu nguồn dòng sông Hồng Hà, tôi nhớ về Hà Nội. Ảnh: Viên Dung 

Và bạn nhìn về hướng Tây Nam, bạn thấy quê hương mình đẹp ngần ấy, ngoài ra vẻ đẹp của ruộng bậc thang miền cao nguyên Bắc phần, còn chứa đựng cả một sức sống của dân tộc, thế mà để mất vào tay thằng Bắc Kinh, tội này có thể nói "tru di tam tộc" cũng chưa hả lòng lịch sử.

Ruộng bậc thang trên triền núi sông Hồng Hà. Ả nh: Nhất Biến 

Chúng ta chỉ mới nói trong cuộc chiến ngày 17/02/1979 là đã hết cuộc đời rồi, chưa nói đến cuộc chiến khốc liệt nhất tại biên giới Việt Nam và Trung Quốc vào những năm 1984, cho đến nay (1987) chiến tranh vẫn còn tiếp tục không ngừng nghỉ, nhân dân Việt Nam chỉ biết cuộc chiến ngày 17/02/1979. Ngoài ra không hề biết gì về cuộc chiến tại biên giới vào năm 1984, có phải toàn dân Việt Nam không muốn biết hay là nhà nước của đảng CSVN không cho nhân dân biết! Trong cuộc chiến 1984, Việt Nam và Trung Quốc đều hao tài, mất người tại chiến lũy vòng 2 và 3, phía Trung Quốc đổi bằng máu, xương thịt của toàn quân, tất cả tướng lãnh đồng tham chiến và mọi nỗ lực khác trút vào chiến trường. Theo tình hình hiện nay Trung Quốc đã cầm chắc, trên tay thẻ chủ quyền chiến lũy vòng 1, 2 và 3, lãnh thổ quê Cha của tôi, chết dưới tay đảng CSVN, bạn có biết không? 

Tôi nghe Nhất Biến nói như vậy, ít nhiều bùi ngùi không biết động lực nào đưa đến sự phẫn uất mà chưa tiện dịp nói ra, liền hỏi: 

- Thưa anh Nhất Biến, anh có thể cho biết giữa hai cuộc chiến, mà anh vừa đề cặp, nó khác biệt thế nào để anh phải quan tâm đến như vậy? 

- Nếu có dịp tôi sẽ trình bày từng chi tiết một, không để lại một bí mật nào, còn hôm nay, tôi xin hài hước một chút lòng cho vui, vì chúng ta đã 13 năm vô tình gặp lại trên chiến lũy biên giới vòng 1 này, đối với tôi đây là ngày hội ngộ có ý nghĩa tình bạn. 

Chúng ta cũng nên để lòng vào một bi kịch, tên tuồng (Ta, Tàu, Hoa). 

Ta (dân ta) khi Trung Quốc mở cuộc chiến tranh biên giới người dân 6 tỉnh chạy tán loạn, trước một nghịch cảnh xã hội vô tổ chức, nói đúng hơn là nhà nước Việt Nam không thừa nhận dân Ta, để mặc Ta chết không công bố con số thương vong của dân quân, và vô thừa nhận mồ tập thể, nhà nước như cha mẹ mà không thương con, hóa ra CSVN thua Trâu-Bò.

Tàu (Ba Tàu) sống tại Việt Nam hơn 400 năm, Ba Tàu hòa nhập cuộc sống đã lâu đời đương nhiên là 100% người Việt, Tổ quốc của ông cha họ là Việt Nam, thế mà cũng bị liên lụy chiến dịch bài Hoa của đảng CSVN, xua đuổi họ ra khỏi nơi chào đời và sinh cư, họ phải xa lìa Tổ Quốc thân yêu một cách căm phẫn, nay họ chết trên danh nghĩa vô Tổ quốc. Tài sản sự nghiệp của Ta, Tàu, đồng loạt trút hết vào túi đảng CSVN. 

Hoa (Hoa kiều) hai tiếng nghe qua rất thân thương, nhưng bản chất làm kiếp Hoa đỏ, phải nói Hoa kiều là lực lượng hậu phương mạnh của tiền tuyến MTGPMN và Trung Cộng, sau ngày 30/04/1975, Hoa kiều trở thành hồn ma bóng quế, lang thang vất vưởng khắp biên giới vòng 1, cuối cùng Hoa kiều tiếp nhận được một mỹ danh tuyệt đẹp (người Việt tị nan) cũng như bao người Việt khác. Đời đã thế chưa đủ, Trung Quốc chơi tiếp một bạt tai vào mặt Hoa kiều qua cuộc trấn lột tài sản đem theo trên lưng, biến họ trở thành trắng tay ra kẻ bần cùng và đày đọa Hoa kiều sóng trong những công trường rừng sâu! 

Màn hạ xuống, kết cuộc hai đảng CSVN-TQ chiến thắng hai dân tộc VN-TQ. CS lạm dụng hai từ ngữ Nhân dân để ngồi trên đầu, thế mà nhân dân vẫn chưa chịu hiểu thấu dã tâm CS, chưa chịu mở mắt to để thấy người CS vô cảm, nhẫn tâm hơn, người CS chỉ biết họ trên hết, không có tình dân tộc hay Tổ quốc, vừa rồi những lãnh đạo đảng CSVN, hiệp nghị về biên giới với đảng CSTQ, lãnh đạo đảng CSVN, lớn tiếng tuyên bố: "Tổ quốc Việt Nam là cái mẹ gì". 

Đúng lúc chúng tôi vào đến cửa làng 189. Trẻ em và người lớn chạy ra xem, nhận diện người vào làng. 

Các em trong làng 189. Ảnh: Nhất Biến 

Nhất Biến hướng dẫn chúng tôi đến thẳng nơi làm việc của Trưởng làng, vừa chạm mặt giới thiệu:

- Thưa quý anh và bạn Viên Dung, đây là Trưởng làng, bạn thân thiết của tôi tên Lều Hà Chỉnh, nguyên Công An xã, một người làm hai công tác vừa làm Trưởng làng kiêm dân sự vụ.

Lều Hà Chính bối rối, Nhất Biến nói tiếp bằng tiến Quang Thoại: 

- Từ lúc này Chính gọi chúng tôi là anh, như thế mới phải quy cách, không nên thủ lễ vì đây là buổi viếng thăm riêng tư. 

- Dạ em biết, mời quý anh ngồi vào bàn. Y nói vói vào phòng kế bên:

- Nhờ quý vị, cho tôi một khay trà, hai khay bánh và trái cây nhé? 

Chúng tôi đồng ngồi vào bàn, nơi dành riêng cho thượng khách, anh Linh nói nhỏ với tôi:

- Quả nhiên làng này, người Việt tị nạn sống không chết vì lao động hay bệnh, mà bị chết ngạt thở, bởi cái tên Công An xã, quân hàm của y Trung sĩ là cùng, chỉ cần thấy nơi làm việc và lối hành sử của y, mình quyết định y sống nhờ cửa quyền, đây là cơ ngơi làm vua núi của y. 

Lều Hà Chính từ phòng kế bên đi ra, nhân viên bưng lễ vật theo sau. Y vừa đi vừa nói: 

- Hôm nay, quý vị nghỉ sớm, vì tôi có khách. 

Một khay trà, hai khuy bánh và trái cây tươi, Lều Hà Chính đứng nghiêm trang thưa: 

- Thưa quý anh, em xin kính mời dùng trà và trái cây, thưa đại ca đêm nay có ở lại đây không để em đi gọi người phục dịch, lo ăn ở. 

- Chuyện ăn ở tính sau, vì chúng tôi chưa hội ý. 

Nhất Biến không chần chờ giới thiệu tiếp: 

- Đại ca Hứa Bông Linh nguyên Đại úy, Trưởng Dòng nhà làng, Đại ca thứ hai Phó Như Bá Trưởng Âu nhà làng nguyên Trung úy, người thứ ba phải gọi là tri kỷ đồng nghiệp với tôi tên Viên Dung, quý vị kết nghĩa huynh-đệ nhé? 

Vừa giới thiệu qua, mới biết Lều Hà Chính 29 tuổi, vào đảng 5 năm trước, y sống trong cái ô "xấu xa" Trung Cộng. Y xoay qua phía Nhất Biến khép nép thưa: 

- Em rất hài lòng cuộc kết nghĩa này, thì ra tất cả cũng là một nhà (người của chính quyền) em chân tình thưa với quý anh, chuyện vui buồn cho em cùng chia sẻ, và nhớ nhau hẹn hội ngộ, em ở đây rất cô đơn. 

Anh Linh, tuy không ưa gã Hán này, nhưng vẫn phải đáp lễ: 

- Đã là huynh đệ thì phải chia sẻ vui buồn chứ, chúng ta chỉ sống nhờ tình người, còn lại những thức khác không giá trị, đúng không chú em? 

Thực ra anh Linh có ý giáo dục tên Công An, Lều Hà Chính đáp: 

- Dạ đúng thế, em cũng sống theo phong cách của quý đại ca đó ạ. 

Nhất Biến hỏi: 

- Chú Chính, bạn Viên Dung có một người chị tên Trang và cô em tên Mỹ Châu, chú sắp đặt cho gặp được không? 

- Dạ thưa được ạ, tùy anh Viên Dung tự tiện đến nhà hai chị ấy, để em nhờ người hướng dẫn. 

Tôi suy nghĩ một chặp, nếu đến nhà thì nói nhiều chuyện riêng tư, nhưng không bằng đến đây tự do nói chuyện, cũng là dịp để chị Trang, Mỹ Châu làm quen với Nhất Biến và điểm trên mặt Lều Hà Chính, liền đáp: 

- Tôi thấy tiện nhất là nhờ một người nào đó, đi mời hai người thân của tôi đến đây thì hay nhất. 

Lều Hà Chính đáp: 

- Để em đi mời hai chị ấy. 

Y vội vã xoay mình vừa chạy, vừa đi một cách hối hả. 

Nhất Biến miệng cười nói: 

- Quý anh và Viên Dung có thấy không, thằng này thuộc vào loại thượng đội hạ đạp, đó là bản chất của người CS, chúng nó không bao giờ biết đạo đức gì cả, đảng viên nhỏ ăn cướp nhỏ, đảng viên lớn ăn cướp lớn, còn lãnh đạo trung thành với đảng chúng nó không cướp mà chỉ hút máu dân, người không biết tưởng rằng Trung Quốc cường thịnh kinh tế, chứ nào ai biết kinh tế đó nằm trong tay cá nhân của đảng CSTQ. À những người phục dịch khi nãy toàn người Việt tị nạn cả, luật lệ làng này tự Lều Hà Chính đưa ra, lúc trước mỗi ngày phải có 6 người phục dịch cho nó, bây giờ chỉ còn 3 người mỗi ngày. 

Lều Hà Chính đi vào thưa: 

- Thưa quý anh, hai chị ấy đến bây giờ, em kính mời quý anh cứ tự nhiên, lâu quá mới gặp lại đại ca Nhất Biến. Chiều nay em mời quý đại ca dùng một buổi nhậu sơn hào. 

Y láu lia nói tiếp: 

- Em đi châm trà nhá? 

Hai người phụ nữ bước vào, cúi đầu chào, Trang và Mỹ Châu ngạc nhiên đồng lên tiếng: 

- Ới này, sao anh Linh, anh Bá và Tâm có mặt ở đây? 

Đúng lúc Lều Hà Chính bưng lên khay trà, chị Trang, Mỹ Châu đồng chào người trung niên lạ mặt. 

Tôi giới thiệu: 

- Anh mặc đồng phục Jeans Levi's là Nhất Biến người bạn thân của em và Lều Hà Chính vừa kết nghĩa huynh đệ với nhau, còn lại anh Linh, anh Bá đương nhiên là bạn của chị Trang và Mỹ Châu. 

Mỹ Châu và chị Trang chạy đến ôm tôi, cả ba đồng khóc, ai cũng thấy cảm động, tình cờ tôi phát hiện trên đôi tay của chị Trang và Mỹ Châu không bình thường như thời nữ sinh hay thời công chức, cả hai người với đôi bàn tay da sần xùi và chỗ da trên 10 ngón tay nổi lên những cục u, chai cứng hỏi: 

- Hai người lao động thế nào mà đôi bàn tay chai cứng thế này? 

- Chị và Châu lao động khai hoang đất ngoài rừng, không lấy gì là cực nhọc lắm, tuy nhiên vì tình người tự chị và Châu, giúp những người già yếu và bệnh, cho nên lao động gấp đôi, nay tay chị và Châu chai cứng là vậy. 

Nhất Biến liến nói: 

- Chú, Lều Hà Chính nghĩ thế nào, có thể phối trí lại việc làm nhẹ hơn cho hai chị không? 

- Dạ thưa được ạ, đặc biệt chị Trang và chị Mỹ Châu có rất nhiều khả năng khác, có thời gian người dân trong làng mang đủ thứ bệnh như sốt rét. "Mỗi năm có hai hoặc ba người qua đời do bệnh sốt rét" đến khi có hai chị thì bệnh sốt rét giảm xuống, nhờ hai chị mát tay vào rừng tìm thuốc chống sốt rét, từ đó đến nay không còn người chết như trước. 

Y nói tiếp: 

- Thì ra những ngọn đồi được khai hoang mau chóng, nay bắt đầu tự lực cũng nhờ hai chị, quả nhiên tôi không hề biết việc này, xin lỗi hai chị, từ đây hai chị miễn lao động và tự do đi lại trong làng để thăm viếng người bệnh. 

Nhất Biến nói tiếp: 

- Thế thì Lều Hà Chính nên báo cáo với cấp trên, đề nghị cấp cho hai chị thẻ vàng, một thẻ nhỏ như vậy mà không cấp được hay sao? 

- Thưa đại ca, trước đây cũng có một đội trưởng lao động xuất sắc, đệ đơn xin thẻ vàng, chờ đợi đến nay đã 5 năm vẫn chưa nhận được thẻ vàng, nhưng em cam đoan với quý anh 3 tháng sau, hai chị sẽ nhận được thẻ vàng. 

"Trưởng làng mới có thẻ vàng, ngoài ra người Việt tị nạn lao động xuất sắc ngoại hạng và phải qua bình bầu của tập thể mới được công nhận, chính quyền địa phương căn cứ vào thành tích cấp thẻ vàng. Giá trị của thẻ vàng được quyền đi lại trên khu vực giới hạn chiến lũy vòng 3" 

Nhất Biến nói tiếp: 

- Người tị nạn trong tương lai cũng là người dân của mình, đừng để họ cho nơi này là cái "Lồng chim" tôi không thể tưởng tượng, những khó khăn về giấy tờ cư trú quá phức tạp, người tị nạn chỉ cần thẻ ID có nghĩa là sinh kế đến với họ. Người trong làng không có thẻ ID không thể đi ra ngoài làm việc, thì đừng nói đến thẻ tín dụng, con cái của họ cũng không đến được học đường v.v... đã là như thế không bao giờ tạo lòng tin cho người tị nạn. Nếu một ngày nào đó hai chị nhận được thẻ ID thì chú Chính suy nghĩ thế nào? 

- Thưa đại ca, em vui mừng, và chúc hai chị như ý, em hy vọng bộ Nội Vụ cấp thẻ ID cho hai chị. 

Nhất Biến nói tiếp: 

- Tôi mời tất cả quý vị đến doanh trại Sư đoàn 189 thăm Đại tá Hoa Chí Cường và dùng cơm ở đó. 

Lều Hà Chính, người từ chối đầu tiên, y tránh né không dám gặp Đại tá Hoa Chí Cường, vì lính không bao giờ ưa Công An, ở gần ngõ mà kỵ mặt. Còn anh Linh, anh Bá nhờ dịp này tìm hiểu thêm về tình thương yêu của hai chị em Trang và Mỹ Châu, ai cũng có lý do riêng, cuối cùng chỉ có tôi đi với Nhất Biến. 

Những người không đến doanh trại Sư đoàn 189, Lều Hà Chính mời dùng cơm tại làng. Tôi và anh Nhất Biến chúc họ dùng một buổi cơm thân mật và vui, chúng tôi tạm biệt hẹn gặp lại ngày mai. 




_________________________________________

Chú thích:

[1] Hoa Việt và Hoa Vàng. 
[2] Hoa kiều, ý nói về người Hoa Đỏ. 

Những phần đã đăng:

Binh đoàn mồ ma biên giới

Ai bỏ mộ tịch liêu, bên kia biên giới

Huỳnh Tâm (Danlambao) - "CSVN chưa bao giờ biểu lộ lòng nhân ái với kiếp đồng sinh, nếu CS biết chia sẻ tình người thì nào có những làng tị nạn dọc theo biên giới Đông-Tây. 9 khu vực của 15 quận huyện và 24 nông trường biên giới Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Châu". 

- Tô Hương nguyên là liên tổ trưởng Hoa đỏ, chức vụ tổng thư ký kinh tài của MTGPMN, khu vực quận Nhì, Sài Gòn. Sau ngày 30/04/1975 đảng CSVN bài Hoa, anh Tô Hương bán hết tài sản đổi ra đôla, ý định đem tài sản về Trung Quốc kinh doanh. Khi vượt qua sông Hồng bốn đứa con của anh bị nước cuốn trôi. Kế tiếp bị quân đội Trung Quốc trấn lột hết tài sản trên lưng, từ đó họ bị khủng hoảng tinh thần mỗi ngày thêm trầm trọng, ăn uống thất thường. Vợ anh Tô Hương tối ngày đi lang thang tìm con, gặp phải bãi mìn, chết thân thể không nguyên vẹn. Anh Tô Hương càng đau khổ hơn. Một buổi sáng dân làng đi lao động thấy anh Tô Hương treo cổ chết trên cành cây rừng!...

*

Sáng nay Anh chị em chúng tôi từ giã, mà nỗi lòng ai cũng bịn rịn khó xa rời. Sau tám năm mới gặp lại trên đỉnh núi cao, trong rừng sâu thẩm không tiếp cận được với thế giới bên ngoài, Anh chị em sống trong hoàn cảnh đau nhói đó, và vẫn tiếp tục. Thế nhưng giấy tờ trên tay do nhà nước Trung Quốc xác nhận "người Việt tị nạn" không khác mấy lao động khổ sai, nói một cách cho đúng nghĩa làm thân nô lệ, còn thua con bò, nó có lúc nghỉ ngơi nhai lại cỏ, sau một ngày làm việc và ăn uống no nê. Do đó Anh chị em chúng tôi dừng lại đôi phút quyến luyến nhau hoài. 

Lúc này, tôi mới nhận diện kỹ càng mỗi bước chân của Anh chị em, không khác nào kiếp thân lưu đày của người da đen thời đại bán khai. Anh chị em ngày xưa là những cậu ấm, thư sinh, anh thư, tất cả đã thành danh, hoạt động trên nhiều lãnh vực trong xã hội miền Nam VN. Còn hôm nay họ hóa ra hình hài khô héo mất hết sinh động, mỗi người già nua trước tuổi. Tôi đứng gần nghe hơi thở khắc khoải, vầng tráng có những đường nhăn xẩm, dù Anh chị em mới ngưỡng cửa bốn mươi hay ngoài. 

Mộ hoang tập thể binh sĩ Việt Nam tọa lạc khắp nơi trên chiến trường biên giới VN-TQ 

Anh chị em đã từng sống trong tinh thần vì mọi người, đã từng dâng hiến kinh tế cho xã hội, cái riêng của đời thường về ăn mặc và trang điểm hài hòa với người chung quanh và không cách biệt với xã hội. Nay hoàn toàn khác hẳn, Anh chị em sống khắc khổ và ăn mặc quần áo lôi thôi, vải thô quần bố, ống quần cao đến cổ chân, áo đã sờn vai đổi màu, lấm tấm đen. 

Ngồi gần nhau, tôi nghe được trong tiếng cười chứa cả một huyền thoại thu nhỏ trong cuộc sống, trong tiếng khóc của âm thanh chua chát, lòng câm hờn chiến tranh có đề định trước, và nghe đâu đó Anh chị em đang suy tư về kiếp sinh lềnh bềnh vô Tổ quốc. 

Bỗng giật mình, tiếng nói lớn của Anh chị em, tay vẫy chào: 

- Hẹn sớm gặp lại. 

Tôi tự tầm không hy vọng lắm, và những lời hứa hẹn hôm qua xem như một món quà lạc quan để tiếp tục sống, dù Anh chị em hiện có một số vốn nhỏ của cá nhân, thế mà không sử dụng riêng, họ xem tình trọng, tiền hèn, vật chất chỉ là hoa phấn không phủ hết "Dòng nhà làng". 

Anh chị em thương nhau từ thời thơ ấu đến những thập niên trưởng thành mới kết tụ như hôm nay, thế nhưng lúc này tình người cũng lệ thuộc nơi cái phên tre hiện tại đang nằm đã quen, cho thấy đời tị nạn tuyệt vọng không có ý định bỏ làng do quá nhiều cản trở, thực sự đã cạn kiệt bởi lòng không còn sức mạnh can đảm, dù lòng có hướng về tương lai cũng đã mịt mù. Anh chị em không muốn tiếp nhận cõi sống này nhưng nó định mệnh. Khi cùn đường, nó làm chủ của hiện tại, và đang đi đến nô lệ tại lâm trường, nông trường... biên giới, mà người ta giọi là lãnh thổ của Trung Quốc! 

Lúc này Anh chị em đã đi xa tắp, khuất qua triền núi, trước ngã đường trang trại tị nạn, một thoáng đã mất tất cả bạn bè, tôi vừa ngỡ ngàng, xúc động, giọt nước mắt tràn qua mi, nói thầm: - họ không đi về bên kia thế giới mà họ đi về những bản làng xa rời vợi, một nơi nào đó tôi chưa đến, càng không có khái niệm nào để hình dung về đời sống riêng tư của Anh chị em trong cộng đồng ấy. 

Tôi suy nghĩ bông lung, từ trong tôi còn đậm nét một chuỗi quá khứ tuyệt đẹp của một thời, ngày ấy chúng tôi là những đứa trẻ, trai, gái mở rộng một bầu trời xanh biếc, chứ nào ngờ hôm nay Anh chị em thân gầy làm hoa mắt tôi. Chân dung họ in trong bóng tôi, họ vừa bước lên xe, chân đạp từ từ bánh xe lăng nhanh xuống dốc núi, những ánh sáng cô độc ấy đã vụt qua màng sương lạnh. 

Nghĩa trang của người chưa chết tại Dòng nhà làng, dưới triền đồi núi gần làng. 

Anh chị em mất môi trường sống sau ngày 30/04/1975, nhưng không phiền muộn, cho đây là vận nước phải sống theo quê hương đất mẹ, thế mà chính quyền xuống quyết định bài Hoa xua đuổi thậm tệ, nhà nước còn chỉ thị người Việt gốc Hoa đi càng xa càng tốt. Đương nhiên họ không thể bỏ đất Mẹ, họ vẫn chần chừ, nán lại đi không đành. Cuối cùng chịu không được với chế độ CSVN, đành lấy quyết định bỏ chậu cá ra biển khơi tìm thế giới tự do, không may thời cuộc đưa đẩy họ trôi giạt mãi mãi vào rừng sâu trên đất quê hương mình, vẫn đường trên quê hương đã là đất lạ (theo ngôn ngữ của đảng CSVN), sống với kẻ không cùng máu. Một lần nữa loài người vô tình quên lửng sự hiện diện của họ trên trái đất này! Mãi đến nay Anh chị em chưa tìm được cho mình một như ý nào ! 

Thế mới biết, chế độ CSVN chỉ mục đích thúc đẩy sự hủy diệt loài người theo thời tính. CSVN chưa bao giờ biểu lộ lòng nhân ái với kiếp đồng sinh, nếu CS biết chia sẻ tình người thì nào có những làng tị nạn dọc theo biên giới Đông-Tây. 9 khu vực của 15 quận huyện và 24 nông trường biên giới Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Châu. 

*

Tôi còn đứng chần ngần, Vinh nói: 

- Thôi, chúng ta về làng, tiển chân các bạn một chặng đường dài xuống núi, thế này là đã khắc cốt ghi xương rồi. 

- Vâng thôi về. 

Vào đến cửa làng, tôi rủ anh Minh và Vinh: 

- Hai anh có bận chuyện gì không, riêng Tâm muốn vào nghĩa trang thăm chị Tú Hà và mấy cháu, sau đó hãy về nhà. 

- Thôi, thì chúng ta cùng đi. 

Nhân tiện tôi hỏi: 

- Tôi thường nghe quý anh chú ý và đề cặp nhiều về nghĩa trang trong làng, vậy nghĩa trang làng này có bí ẩn sau lưng đúng thế không? 

Anh Minh đáp: 

- Đúng thế, trong nghĩa trang có hơn 18.570 nấm mồ của người đang sống, ngoài ra có 1.526 người chết vì dịch tả, và 95 người thực sự chết bằng nhiều cách khác nhau. Những người già bệnh tật chết không nhiều, trái lại người trẻ, khỏe mạnh, chịu đựng không nổi môi trường sống, từ đó suy sụp tinh thần, đâm ra cuồng trí, điên loạn mất thần kinh, họ chết rất khổ sở trong sự hành hạ thân xác đau đớn. 

Anh Minh vội nắm tay tôi, dắt đến trước một ngôi mộ đã bị mưa gió bào mòn, chỉ còn lại nấm đất nhỏ và viên đá núi không ghi tên họ, anh Minh nói tiếp: 

- Có lẽ Tâm biết người này, anh Tô Hương chủ nhà buôn giấy in, ở trước mặt Ty cảnh sát quận nhì Sài Gòn, gần nhà Đào xích lô. 

Tôi gập đầu nói: 

- Tâm biết anh này. 

Anh Minh nói tiếp: 

- Tô Hương nguyên là liên tổ trưởng Hoa đỏ, chức vụ tổng thư ký kinh tài của MTGPMN, khu vực quận Nhì, Sài Gòn. Sau ngày 30/04/1975 đảng CSVN bài Hoa, anh Tô Hương bán hết tài sản đổi ra đôla, ý định đem tài sản về Trung Quốc kinh doanh. Khi vượt qua sông Hồng bốn đứa con của anh bị nước cuốn trôi bởi tuổi trẻ không kinh nghiệm bơi lội, gặp nước tự ôm nhau chết. Vừa mất bốn đứa con và bốn balô tài sản không phải nhỏ, chỉ còn lại hai vợ chồng, vốn làm cha mẹ thương con khóc ngày đêm. Kế tiếp bị quân đội Trung Quốc trấn lột hết tài sản trên lưng, từ đó họ bị khủng hoảng tinh thần mỗi ngày thêm trầm trọng, ăn uống thất thường. Vợ anh Tô Hương tối ngày đi lang thang tìm con, gặp phải bãi mìn, chết thân thể không nguyên vẹn. Anh Tô Hương càng đau khổ hơn, vợ con không còn bên anh, và tài sản cũng đã biến thành của người khác, một đời kinh doanh, định giá thị trường giấy, nay chỉ còn đơn độc hai tay không. Một buổi sáng dân làng đi lao động thấy anh Tô Hương treo cổ chết trên cành cây rừng! 

Nghĩa trang của người chưa chết tại Âu nhà làng, dưới triền núi đầy sương mù. 

Anh Minh đưa tay chỉ một nấm mộ khác nói tiếp:

- Nấm mộ đó cũng là Hoa đỏ, nghe anh Hứa Bông Linh kể lại. Họ Kiều tên Giang, nguyên chủ tịch cộng đồng người Hoa đỏ tại Cần Thơ, đi theo MTGPMN quân hàm Thượng tá và cấp bậc Hoa đỏ Trung tá. Khi Kiều Giang vào biên giới cũng bị trấn lột như mọi người khác, dù Kiều Giang có trình giấy quyết định quân hàm Trung tá và giấy công vụ đặc phái quân đội Trung Quốc. Cùng ngày quân ủy Vân Nam từ chối Kiều Giang, cả cuộc đời của Kiều Giang hy sinh cho đảng, sau đó ôm hận vào lòng, ông âm thầm vào rừng sâu tìm được trái Mã Tiền Tinh, đem về chế thuốc độc, ý định cho cả nhà uống Mã Tiền Tinh rồi ôm nhau cùng chết một lúc. Vợ Kiều Giang vì thương con đề nghị: "Anh uống trước, sau khi chôn cất anh đâu vào đó thì mẹ con em sẽ chết theo sau cũng chưa muộn màng". Từ lúc Kiều Giang chết cho đến nay bà ấy vẫn sống và tiếp tục nuôi con, bà ấy vất vả lắm, thân cô độc nuôi ba mặt con, đứa nhỏ nhất lúc ấy mới bảy tháng. 

Tôi lắng nghe từng câu chuyện dài của mỗi đời người, anh Minh dừng lại, đôi khắc rồi nói tiếp: 

- Chung quanh nấm mộ Kiều Giang có hơn 32 nấm mộ nữa đó là những đồng chí cùng hoạt động ở Cần Thơ, họ chết vì không chịu được sự trấn lột của hai đảng CSVN-TQ, họ bị bỏ rơi, ân hận. Ngoài ra có một số thương gia Chợ Lớn vì tin lời khuyến dụ của Hoa đỏ, đóng góp kinh tài cho đảng CSVN, sau 1975 vẫn chưa mở mắt, thức tỉnh cứ đâm đầu đến biên giới để rồi tiếp nhận mọi ngỡ ngàng. Thì ra Hoa đỏ giấy không có giá trị! Thế mới biết ôm nhầm mộng tưởng Hoa kiều chính hiệu. Sự việc đã lỡ làng đem đến gia đình khốn quẫn, tiếp theo bất thuận hòa, thế là người có trách nhiệm với gia đình lấy tự tử để giải kết, họ được chôn phía sau mộ của Tú Hà và mấy cháu. Còn một số nấm mộ khác, vượt trốn khỏi làng bị lính biên phòng Trung Quốc phát hiện bắn chết, nay trong làng còn vài người điên cũng đang đến tình trạng một chân dưới mặt đất, một chân trên mặt đất, nghĩa trang là nơi hứa hẹn mà họ sẽ đến! 

Tay anh Minh chỉ về hướng Nam nói: 

- Tâm hãy chú ý, trong nghĩa trang này có hơn 18.573 nấm mồ của người đang sống, họ là ai? Thực sự đó là những nấm mồ giả, chủ làng có lập danh sách báo khai tử, nói chung trốn được người nào là phải khai tử và lập nấm mộ ngoài nghĩa trang để tránh sự chú ý của chính quyền địa phương và bảo vệ an ninh cho làng. Hầu như làng tị nạn nào cũng làm như vậy, nhà nào cũng có người bỏ làng, cho nên họ bảo vệ cho nhau. Ông chủ làng là người có trách nhiệm báo cáo sinh-tử trong làng. Hiện nay ông nhắm mắt để mọi người đi tìm tự do, ông thừa biết và hiểu nguyện vọng của người dân trong làng, ông can đảm báo cáo chết trăm sinh một, chết đủ kiểu cách, như lao động, nước độc, tim, gan, ruột, tiểu đường, lao phổi và các bệnh truyền nhiễm, v.v... Bọn lính biên phòng Trung Quốc nghe làng nào có bệnh truyền nghiễm lao phổi hay bệnh dịch tả, thế là không thấy chúng bén mặt vào làng. Trong nghĩa trang có hơn 18.570 nấm mồ không tên tuổi, không ngày sinh, ngày tử, kể cả người chết thật cũng thế, có nấm mồ không có địa chỉ danh tính, đó cũng là một cách hiểu thầm của dân làng. 

Tôi vội hỏi: 

- Thưa anh Minh, nấm mồ ở đây nhưng họ sống ở đâu? 

Anh Minh và Vinh cười đáp: 

- À, đây là một vấn đề nan giải, nói hoài không kết thúc và hầu như ngày nào cũng có một vụ để bàn đến. Người tị nạn bỏ làng ra đi gồm hai hướng. 

Thứ nhất hướng Đông, họ có thẻ nhận diện ID và có điều kiện, đi thẳng đến Hong Kong, sau đó tìm đường đến Đài Loan hay các quốc gia khác, tuy nhiên hướng đi này khó hiểu, bởi có đi mà không thấy tin về, chính thằng con cả của mình, nó tên La Hùng đã đi hơn năm vẫn không biết lý do, hiện nay tạm cho biệt tăm tin tức ! 

Thứ hai hướng Tây, vượt biên qua Miến Điện, liên lạc với người sắc tộc Karen hay Shan trả cho họ một số tiền hướng dẫn đường vào biên giới Thái Lan. Con đường này cũng khá nguy hiểm, có rất nhiều người bị chính quyền Miến Điện bắt được cho vào tù vài năm. Nhà tù Miến Điện đánh đập người mình quá dã man, sau khi ra tù người nào cũng mang trên mình đủ thứ bệnh tật. Chính quyền Miến Điện đuổi người mình về biên giới Trung Quốc, những người đi không trót lọt qua biên giới Thái Lan đành quay trở lại Trung Quốc, họ hủy gấy tị nạn chấp nhận sống vô gia cư, vô tổ quốc, họ sống bằng nghề hành khất, bán máu, làm công nhân khuân vác tại những ga xe hỏa, bến xe đò, bến tàu, tất cả đều làm lậu, chỉ có một số ít người qua được biên giới Thái Lan. UNHCR chấp nhận lập hồ sơ xin tị nạn quốc gia thứ ba, theo lời khai có chứng từ (người Việt tị nạn) tại Trung Quốc. 

Năm trước người ta đồn rằng: Có một tổ chức đưa người qua biên giới Thái Lan, mọi người trong làng xôn xao, rủ nhau bỏ làng, với số tiền 10.000 Nhân dân tệ (40 đôla) họ phải mất 7 năm chịu đựng đói rách, thiếu thốn mọi mặt, dành dụm từng ấy vốn. Kết quả tiền mất tật mang. Người Việt tị nạn bị người Trung Quốc lừa, họ bắt đúng mạch của người Việt tị nạn. Điều này trong làng đã cảnh báo trước, họ không nghe cho rằng cản trở, cuối cùng họ về lại làng, tuy họ thừa biết ra khỏi làng một tháng xem như không còn tư cách tị nạn. Đời là vậy nhưng làng không bỏ họ, vẫn tạo cho họ nhiều hy vọng để tiếp tục sống, độ này trong làm có hiện tượng, người tàn tật sống trong làng mà nấm mồ lại ở ngoài nghĩa trang. Quả thực đau lòng khi đứng trước một xã hội không hy vọng, không có được một tia ánh sáng để rọi vào họ cho ấm! Con đường vượt biên nào cũng không an toàn, chỉ hy vọng trong may rủi. 

À, vì nguyên nhân vừa nói, cho nên chúng tôi ở đây rất kính trọng anh Hứa Bông Linh và anh Phó Như Bá, hai anh này can đảm đứng trước chính quyền địa phương cam đoan chịu mọi trách nhiệm về an ninh cũng như đời sống cho dân làng, cũng như lao động phải đúng chỉ tiêu đã qui định. Đấy chúng ta đã thấy 18.573 nấm mồ và những người bỏ làng, nếu làm một bài toán mới biết nhân khẩu và lao động có vấn đề, một khi thiếu lao động thì lấy đâu ra cho đúng chỉ tiêu! Trước sau gì ông chủ làng cũng phải đi tù, ông chủ làng biết điều này nguy hiểm vẫn cắn răng nhẫn nhục, thà một người hy sinh cho nhiều người được sống. Những năm qua đã biết bao nhiêu ông chủ làng đi tù vì chính quyền địa phương qui tội tham nhũng. 

Tôi thấy Vinh nghe anh Minh nói về sinh hoạt của "Dòng nhà làng" không có ý kiến nào cả hình như có một đồng thuận nào đó, tôi hỏi: 

- Thế thì làng của Vinh thế nào? 

Vinh nuốt nước bọt xuống cổ họng, rồi nói: 

- Âu nhà làng, cũng không khác mấy, đối với con số nấm mồ của người sống tại nghĩa trang ít hơn nhiều. Sở dĩ Dòng nhà làng có nấm mồ sống nhiều là ở thời điểm dịch tả, nhân dịp ấy họ bỏ làng, riêng về Âu nhà làng, người tị nạn bỏ làng ra đi với con số chóng mặt. 

Vinh nói tiếp:

- Thưa anh Minh, cho em nói rõ hơn để Tâm hiểu thêm. Người tị nạn bỏ làng đi hướng Đông là thành phần Hoa vàng và Việt ăn theo máu Hoa. Còn số người Việt đi hướng Tây là thành phần Hoa đỏ. Hôm nay tình trạng của người Hoa đỏ rất bi đát, trước đây họ có tham vọng ngày hồi hương sẽ được huy hoàng, sống an nhàn trên quê hương. Nhưng khi họ về đến Trung Quốc đã tiếp nhận mọi sự thật không như ý, từ đó trở thành thất vọng. Hoa đỏ bỏ làng đi tìm lại thân nhân để rồi ân hận trước phũ phàng. Chính Vinh tiếp xúc một số người trong làng, điển hình một anh Hoa đỏ kể rằng: "Em đã tìm gặp ông Nội, quý Bác cũng vui mừng đấy nhưng một lúc niềm vui, nhanh tan biến, khi họ biết em là người tị nạn không có một vật tùy thân nào, em thấy họ thay đổi thái độ, nhạt nhẽo như nước lã ao bèo, em thấy vậy đứng lên liền vái chào từ biệt, họ không nói một câu nào trước khi em ra đi. Tình cảnh này không phải một mình em, hầu như tất cả Hoa đỏ cùng chung số đen, nếu biết trước những phũ phàng này thà em ở trong làng còn hơn". Đó là thực trạng của anh, chị, em Hoa đỏ bởi vậy chúng ta thương yêu họ trong lúc trống vắng tình người. 

Còn về người Việt và người sắc tộc đã từng ở biên giới, họ rất thụ động không có ý kiến và không phản đối, chúng ta phải hướng dẫn họ tìm hiểu thế giới tự do và hiểu thế nào là dân chủ đa nguyên, hy vọng họ động não vì mọi người để thực hiện quyền sống của con người, mỗi cá nhân phát biểu trước mọi người, cùng lấy quyết định một giá trị chung, hy vọng chúng ta làm được điều này trong những ngày ở đây. 

Tôi và anh Minh đồng ý những lời nói của Vinh rất giá trị, nếu thực hiện được trong cộng đồng người Việt tị nạn, hay biết mấy. 

Tôi vẫn hồ nghi nguyên nhân từ đâu đến và lý do nào xuất hiện nghĩa trang không giống ai, hỏi: 

- Vinh và anh Minh có thể cho biết về lịch sử của nghĩa trang này được không? 

- Thực mà nói, không ai biết những nghĩa trang này, nó đã có từ bao giờ, vì chúng tôi chuyển đến đây đã thấy như vậy rồi, sau đó nhờ có một cơn mưa lớn làm xủi đất xuống, mọi người thấy cũng ngộ nghĩnh, bởi mặt đất dưới nấm mồ vẫn còn nguyên, phát hiện từ đó mới suy luận biết người đi trước làm mồ giả đề trốn làng, thế là người sau tiếp tục tạo những nấm mồ mới. 

Nói chưa hết chuyện nghĩa trang, anh Hứa Bông Linh từ xa đi tới hỏi: 

- Tôi, tưởng mấy chú bỏ làng đi rồi chứ? sao mà chia tay bạn bè bịn rịn lâu về thế? nào ngờ mấy chú vào nghĩa trang, có phải La Minh nhớ vợ không? Hôm qua làm lễ nóng, hôm nay làm lễ nguội à? Nhân đây tôi mời quý chú về nhà dùng cơm trưa. 

Ông chủ làng, Hứa Bông Linh hỏi một lúc đến bốn câu toàn là đùa, ai cũng cười ồ lên, tôi liền thưa: 

- Thưa anh Linh, nếu chúng em bỏ làng thì ít nhất phải có một số vốn trên 40 đôla, và nghĩa trang này không có ba nấm mồ của chúng em vì sợ anh bị hệ luỵ, còn một ý khác, em muốn 18.573 nấm mồ đứng dậy đùa dai với anh. 

Tất cả đồng cười, anh Hứa Bông Linh không ngần ngại đáp: 

- Chú em mới đến đây gần 20 ngày mà đã biết hết tình hình trong làng này, có thể La Minh và chú Vinh nằm vùng, báo cáo cho chú em chứ gì, hay thực. Thôi mời ba chú về nhà anh dùng cơm, xem như là một buổi chiêu đãi để cho mọi việc trong làng được êm chuyện, chúng ta về nhanh kẻo cơm canh nguội lạnh mất ngon. 

Mọi người đồng cười gióng giả, Vinh thúc giục: 

- Vâng, chúng em vui mừng, thôi về nhà để chị Linh chờ. 

Trong buổi cơm, có nhiều chuyện đáng nghe, nhất là chuyện anh Linh nói về chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc và hoạt động của MTGPMN. Tôi hỏi anh Linh: 

- Thưa anh Linh, từ lúc em đến đây gặp anh và anh Bá, em cảm thấy rất thân thiện, tuy nhiên không dám hỏi thăm và không có dịp tâm sự như hôm nay, em xin mạn phép hỏi anh về một người mà anh có thể biết đó là ông Trương Như Tảng nguyên là Bộ trưởng Tư Pháp của MTGPMN. Quý anh có liên hệ ít nhiều với ông ấy không? 

- Ông Trương Như Tảng là thầy của chúng tôi đó, ông hướng dẫn chúng tôi hiểu biết về luật, ông chú ý về công tác Tư pháp, nhất là khuyên chúng tôi nên bảo vệ mạng sống mỗi khi bị sập bẫy, phải đối phó thế nào với VNCH, ngoài ra thầy còn hướng dẫn chúng tôi về chuyên môn Hoa vận. Từ đó chúng tôi hoạt động hữu hiệu hơn trong công tác Hoa vận, và Tư pháp. Theo chúng tôi hiểu Bộ Tư Pháp bảo vệ luật pháp, công lý, một trong ba quyền của một nước dân chủ, nhưng đảng CSVN lại hành xử trong bóng tối, dùng Tư pháp như chân tay đao phủ thủ, được quyền giết trước, báo cáo sau, những ai không có lợi cho CSVN đều giết sạch. Ở ông thầy thì khác, lấy Hoa vận làm mục tiêu tâm lý, thu phục nhân tâm hơn là giết người. Nói như vậy không phải là không có người chết bởi Bộ Tư Pháp, nhiều người bị giết do bọn máu lạnh Cục R của đảng CSVN, họ ra lệnh giết hằng chục ngàn người rồi đổ hết trên đầu ông Bộ Tư Pháp, đảng CSVN còn lợi dụng ông Bộ Trưởng trên danh nghĩa người Việt gốc Hoa đi thu hụi chết. 

Hứa Bông Linh hít một hơi thuốc dài nói tiếp: 

- Hiện nay chúng tôi bặt tin ông Bộ Trưởng, không biết ông ở đâu, nếu gặp lại chúng tôi sẽ xem ông là người thầy như ngày nào và luôn kính trọng. 

Nhân dịp thuận cho tôi, đang muốn tìm một thiện cảm mới nơi những cựu cán binh bất mãn đảng CSVN, như Thiếu tá Trương Hoán Tùng, Đại úy Hứa Bông Linh, Trung úy Phó Như Bá và có thể còn nhiều người khác, nói: 

- Thưa anh Linh, em nói về một phần gia đình ông Trương Như Tảng, còn về mặt chính trị thì em hoàn toàn không liên hệ, tuy nhiên em biết nhiều về ông bởi sau 1975, ông về Sài Gòn thường gặp nhau ăn cơm gia đình mỗi tháng một hay ba lần. Em với ông Tảng không cùng họ nhưng cùng một liên hệ bên bà ngoại, em gọi ông Tảng bằng anh Ba. Trước kia anh Ba không có ý đi theo CS nhưng bị thuyết phục, hai nữa gia đình không chấp nhận, lúc anh Ba từ Pháp về Việt Nam đi thẳng vào bưng biền, và được trao chức vụ Đại sứ Chính phủ Cách mạng Lâm thời, văn phòng đặt tại Nam Vang, sau đó giữ chức Bộ Tưởng Tư Pháp. Về phần gia đình có rất nhiều người phục vụ dưới chế độ VNCH, tự dưng anh Ba theo CS trở thành hai chiến tuyến trong gia đình, nhưng mạnh ai nấy thờ lý tưởng của mình. Sở dĩ CS lợi dụng anh Ba là để đối đầu với người trong gia đình, đang là thành viên cao cấp của chính quyền Quốc Gia, tiếp theo đảng CSVN đánh bóng anh Ba thành người Việt gốc Hoa do có họ Trương, thực tế anh Ba không có máu Hoa. Sau 1975 CSVN bài Hoa, thế là huynh đệ họ Trương vượt biên, nghe người ta nói anh Ba đang ở Paris và có viết một cuốn sách (Memoires D'un Việt Cộng). Hiện nay em chưa biết giữa anh Trương Hoán Tùng có liên hệ thế nào với anh Ba không thì em chịu thua. 

Hứa Bông Linh liền đáp: 

- Cả năm nay chúng tôi chưa gặp nhau, nhân dịp này chú em đi tìm gia phả của đại ca Trương Hoán Tùng quả nhiên đúng lúc, chuyện này không khó hãy đi một chuyến là biết, thế chú em có ý này không? 

Tôi mở cờ trong lòng phổi, cũng đã có ý trở lại thăm anh Dũng, chị Hồng, và quan trọng nhất liên hệ mật thiết với anh Trương Hoán Tùng, mới có cơ may tìm được những địa danh chiến tranh và tọa độ lãnh thổ biên giới của Việt Nam bị mất vào tay bành trướng Bắc Kinh, tôi không chần chờ liền đáp: 

- Thưa anh, có thể hai ngày sau anh em mình lên đường, chuyến đi này gặp lại anh Trương Hoán Tùng, có lẽ anh ấy sẽ rất ngạc nhiên. 

- Chú em nói rất hảo ý của tôi, như vậy thằng Phó Như Bá cùng đi với chúng mình, vì không thể thiếu y trong chuyến đi này được. 

- Thế thì càng vui và hỗ trợ cho nhau trên đường đi. 

Hứa Bông Linh nói tiếp: 

- Tôi nhờ Vinh, về nói lại với Bá, chuẩn bị hai ngày nữa là đi thăm đại ca Trương Hoán Tùng. 

Nay tôi có đến ba người am tường địa danh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc, hỏi: 

- Thưa anh Linh, chúng ta phải đi và về con đường nào ngắn nhất, vì em cần tranh thủ thời gian, chỉ còn 9 ngày ở trên biên giới này. 

- Dễ thôi, đi đường chiến hào 1, dành riêng cho biên phòng địa phương. Chú em phải lấy giấy tờ của La Minh và giả bệnh truyền nhiễm là không có vấn đề gì cả. Chúng ta sẽ đi trên đường chiến hào mất 6 ngày, đi và về bằng xe hỏa 24 giờ, thăm viếng đại ca Tùng 2 ngày, thế là trọn thời gian 9 ngày của chú em. 

- Cảm ơn anh Linh. 

Chúng tôi ra về, chào tạm biệt cả nhà anh Linh, ngoài trời đã tà tà bóng. 

Thêm một ngày, chúng tôi đã đi qua 3 ngôi làng người Việt tị nạn, trên lãnh thổ cũ Việt Nam, nay thuộc Trung Quốc. Tính đến nay đã ngày thứ 20 đi thực thế, tiếp nhận được mỗi ngày, mỗi chuyện ngoài nhân gian khó tin nhưng nó là sự sống thực hằng ngày trên biên giới do CSTQ quản lý. Một ngày đi qua thấy dấu vết chiến tranh còn nguyên chưa đi vào lịch sử, chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc tại nơi này đem lại cho tôi cái nhìn bao quát về lãnh thổ Việt Nam, tôi rất hy vọng được biết càng nhiều càng tốt, bởi lãnh thổ là xương máu của ông cha tạo ra đã bao ngàn năm mới có hôm nay, lịch sử dân tộc Việt Nam không có lý do nào để lãnh thổ bị bào mòn dưới chế độ CSVN. 



_________________________________

Những phần đã đăng:



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét