10 tháng 4, 2014

Việt Nam, về đâu? (Phần 2)



Đường lưỡi bò! Một vài nét mang tính thời gian, lịch sử

Sau khi chiếm được lục địa, vào ngày 4-12-1950, bộ trưởng ngoại giao của Trung Quốc là Chu Ân Lai đã tuyên bố tán thành bản tuyên ngôn Cairo năm 1943 do ba bên là Anh, Mỹ và Trung Hoa (quốc dân đảng) đồng thuận, trong đó có đoạn viết: “Đối tượng của các nước này (tức là của ba nước Đồng minh) là phải tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cảcác đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã cưỡng chiếm từ khi có Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 và tất cảcác lãnh thổ Nhật Bản đã cướp của người Trung Hoa, như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, phải được hoàn trả Trung Hoa dân quốc”.

Trong tuyên ngôn Cairo, dù Trung Hoa là một trong 3 thành viên chính, lại trong vai trò người thắng trận, nhưng họ không thể đạt ý đồ chiếm lĩnh Hoàng Sa, Trường Sa là vì cho đến thời điểm đó, Trung Hoa Dân quốc tự biết không có một cứ điểm nào khả dĩ mang tính lịch sử để có thể lên tiếng đề nghị với đồng minh trao trả Hoàng Sa, Trường Sa lại cho Trung Hoa như trường hợp Mãn Châu, Bành Hổ. Bởi vì, xét cho cùng, tất cả các bản đồ đời nhà Thanh ấn hành từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 đều khẳng định điểm cực nam của Trung Quốc là ở phủ Quỳnh Châu tại vĩ tuyến 18,13 độ vĩ bắc. Trong khi đó, Hoàng Sa nằm ở vĩ tuyến 17,15 độ vĩ bắc và quần đảo Trường Sa ở từ vĩ tuyến 12 đến 8 độ vĩ bắc. Nghĩa là những tấm bản đồ này đều trùng hợp với những tư liệu trong suốt chiều dài “lịch sử” kéo từ thời Tần, Hán cho đến sau Thế chiến thứ II (1945). Trùng khớp với tất cả các bộ chính sử của nhà nước phong kiến Trung Quốc, từ Sử ký cho đến Đại Nguyên nhất thống chí (1294), Đại Minh Nhất thống chí (1461), Đại Thanh Nhất thống chí (1842), đều khẳng định “cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là Nhai huyện, đảo Hải Nam”.

Phần Tài liệu ghi rõ như vậy. Trong thực tế Trung Quốc còn cho thấy là họ chưa bao giờ có bất cứ một sự hiện diện, chiếm đóng nào tại Hoàng Sa cho đến trước năm 1909. Và họ cũng chưa có bất kỳ sự hiện diện nào tại Trường Sa cho đến năm 1974 (năm xảy ra cuộc chiến với Hải quân Việt Nam Cộng Hòa.

Trong khi đó về phía Việt Nam có những chứng cớ cụ thể như sau: “Đầu thế kỷ 17, Chúa Nguyễn ở Đàng trong đã tổ chức khai thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hiện vật lấy được từ những tàu đắm. Năm 1816 vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thủy trình năm 1835. Đội tàu Hoàng Sa và đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vu hơn: khai thác, tuần tiểu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo.

Bia chủ quyền của Việt Nam thời Pháp thuộc được dựng năm 1938 tại đảo Hoàng Sa. Khẳng định chủ quyền liên tục của Việt Nam trên đảo từ 1816 cho đến thời điểm dựng bia. Ngày 14-10-1950 chính phủ Pháp chính thức chuyển giao quyền kiểm soát đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính phủ quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu. Ngoài ra, còn có các bản đồ ghi nhận chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa bao gồm Bản đồ Việt Nam thời quân chủ (thế kỷ XVI-XIX); bản đồ xuất bản tại phương Tây (thế kỷ XVI-XIX); bản đồ Trung Quốc xuất bản tại phương Tây (thế kỷ XVI – XX); bản đồ Trung Quốc do các nhà nước Trung Quốc xuất bản (thế kỷ XVI-XX) và tư liệu hình ảnh, tư liệu Hán – Nôm của Việt Nam thời Nguyễn và trước năm 1975.(theo wikipedia). 

Ngoài ra, hội nghi Sans Francisco vào 5-9-1951. Duới sự bảo trợ của Nga, ngoại trưởng Gromyko đã đề nghị đưa ra thảo luận và bỏ phiếu trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung cộng. Kết quả có ba phiếu thuận, 1 phiếu trắng và 47 phiếu chống lại việc trao Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc. Ngay sau đó vào ngày 7-9- trưởng phái đoàn Việt Nam trong hội nghị là TT Trần văn Hữu đã tái xác nhận Hoàng Sa và Trường Sa là cương vực của Việt Nam. 51 thành viên trong hội nghị không có một thành viên nào phản đối tuyên bố này, kể cả Gromyko của Liên sô!

Vơi tất cả những dữ liệu, những chứng cứ xác thực như thế, tại sao Trung cộng vẫn bất chấp, vẽ ra cái đường lưỡi bò vào năm 1948. Và dần đưa ra thách thức công luận vào những năm gần đây?

a. Trách nhiệm của công hàm 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng.

Người vẽ ra cái đường lưỡi bò 11 đoạn vào năm 1948 là Lâm Tuân thuộc Trung Hoa Quốc Dân Đảng, nhưng chỉ một năm sau, Tưởng giới Thạch đã bị đánh bật ra khỏi lục địa, từ 1949 Trung cộng thừa kế tấm bản đồ này.

Sau thất bại ê chề tại hội nghị Sans Francisco, Trung quốc vẫn không từ bỏ tham vọng làm bá quyền về phương nam, nên sau khi chiếm được đại lục, họ đã dốc toàn lực vào việc hỗ trợ tập đoàn Hồ chí Minh ngõ hầu mở mang bờ cõi cộng sản xuống toàn vùng Đông Dương. Kịp đến 20-7-1954 hiệp định về Việt Nam tại Genève ra đời, phân chia đất nước Việt Nam ra làm hai quốc gia. Cộng sản chiếm giữ phía bắc vỹ tuyến 17. Chính phủ miền nam giữ phía nam vĩ tuyến. Theo đường ranh phân chia này, toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều trực thuộc chủ quyền của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại miền nam Việt Nam. Theo đó, mộng bá quyền của Bắc Kinh cũng tạm thời bị chận lại. Tuy nhiên, sau khi tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh thiết lập hệ thống cai trị tại miền bắc (1954) rập khuôn theo những sách lược của Trung cộng. Một cuộc chiến tràn về phương Nam cũng đã được Trung cộng mở ra.

Trước hết, vào ngày 04-9-1958, thủ tướng Trung quốc, Chu ân Lai tuyên bố chủ quyền 12 hải lý của Trung Cộng trên Hoàng Sa và Trường Sa phủ lấp lên chủ quyền của chính phủ Việt Nam cộng Hòa. Thay vì, phải có trách nhiệm với đất nước, dù đất nước lúc này đang trong vòng chia cắt. Tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh qua Phạm văn Đồng đã công khai viết công hàm công nhận chủ quyền 12 hải lý của Trung cộng tại Hoàng Sa và Trường Sa. Nghĩa là công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung cộng (vì không có đảo thì làm sao có 12 hải lý thuộc đảo?). Việc làm này mang hai ý nghĩa. Thứ nhất, tự ý từ bỏ trách nhiệm liên đới với miền nam trong việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Trường Sa và Hoàng Sa. Thứ hai để lộ một chủ đích tồi bại xấu xa, khích Trung cộng trực diện gây chiến tranh với miền nam với hàm ý. “Nó không thuộc về tôi, anh bảo nó là của anh thì tôi công nhận là của anh, anh cứ tự nhiên ra mà tranh đoạt lấy”!

b. Giá trị pháp lý của Công Hàm 14-9-1958.

Khi nói đến giá trị pháp lý của một văn bản, người ta thường chú ý tới những vấn đề chính như: Những bằng cớ trưng dẫn, sự ngay tình, không có tỳ vết trong những chứng cứ của các bên liên hệ và không bị những đệ tam nhân phản đối vì quyền lợi của họ trực tiếp bị đe doạ. Theo lý thuyết này, công hàm của Phạm văn Đồng ký ngày 14-9-1958 có thể trở thành một bản văn vô giá trị. Bởi lẽ, khi ký, Phạm văn Đồng không đưa ra những dữ kiện chứng minh cho điều mình đã xác nhận trong văn bản. Thứ hai, nó có tỳ vết là không ngay tình vì PvĐ biết rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam và đang được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ở miền nam thực thi chủ quyền trọn vẹn trên phần đất này. Theo đó, việc làm của Y nếu hiểu theo câu chuyện của nhân gian, nó được coi là một hành động của một tên lưu manh đi “ Bán đất nhà người” để trục lợi. Theo đó bản văn tự nó không có giá trị pháp lý.

Về phía miền nam, họ rất tích cực trong việc bảo vệ cương vực, lãnh thổ của đất nước. Nhưng có thiếu xót là đã không đưa ra bất cứ một Văn Bản ngang cấp nào để phản bác và phủ nhận cái công hàm của Phạm văn Đồng. Trái lại, họ đã chủ quan và cho cái công hàm của Phạm văn Đồng là chuyện trẻ con, chuyện buồn cười và chỉ tựa vào những sự kiện lịch sử, kể cà công bố của hội nghị tại Sans Francisco để bảo vệ chủ quyền của mình. Việc làm của họ là chính đáng. Nhưng, sự thiếu sót trách nhiệm trong việc phản bác công hàm của Phạm văn Đồng bằng một văn bản đồng cấp, dù không tự nhiên tạo cho bản văn của Phạm vằn Đồng trở thành có giá trị, nó cũng tạo cho Việt Nam nhiều khó khăn trong việc bảo vệ những phần đất này. Tuy nhiên, cái trách nhiệm thiếu sót của Việt Nam Cộng Hòa, nếu có, nó cũng chỉ được tính trong khoảng thời gian nhất định từ 14-9-1958 đến 30-4-1975 mà thôi. Sau ngày 30-4-1975, ngày cộng sản cưỡng chiếm miền nam, (Phạm văn Đồng vẫn còn nắm giữ vai trò thủ tướng), trách nhiệm tạo ra giá trị thực sự cho bản công hàm ngày 14-8-1958 hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ ứng xử của nhà cầm quyền CS tại Việt Nam. Bởi lẽ, từ sau ngày 30-4-1975. Sau hiệp thương thống nhất, nhà nước CSVN nắm vai trò quản trị đất nước từ bắc chí nam, dĩ nhiên, bao gồm cả chủ quyền trên các vùng đảo Hoàng Sa, Trường Sa trước đây thuộc miền nam theo hiệp định Genève. Theo đó, trách nhiệm pháp lý về Hoàng Sa Trường Sa từ đây thuộc về họ. Nhiệm vụ của chính quyền Sài Gòn coi như đã gián đoạn, chấm dứt.

Về phía Trung cộng, rõ ràng họ có cái nhìn và tính toán hoàn toàn khác biệt với phía Việt Nam khi nắm được bản văn của Phạm văn Đồng. Họ biết rõ cái bản văn của Pv Đ là vô giá trị về mặt pháp lý, vì nó mang nhiều tỳ vết. Tuy nhiên, cái lý của một tên cường đồ là có thể vin vào bất cứ một sự kiện nào, dù vô lý để bảo vệ cho cái lý lẽ của mình. Tuy thế, trong trường hợp này, Trung cộng có hai lợi thế nhỏ:

Thứ nhất, trong suốt một khoảng thời gian dài, dù có tiếng qua lời lại, nhưng phía chính phủ Việt Nam cộng Hòa từ 14-9-1958 đến 30-4-1975, đã không đưa ra trước công luận bất cứ một bản văn đồng cấp nào để phủ quyết và phản bác cái công hàm của Phạm văn Đồng để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa. Việc làm này dĩ nhiên không ban cho công hàm của PVD giá trị thực tiễn, nhưng làm cho niềm tin của họ (TC) lớn mạnh hơn. Họ sẵn sàng chờ đợi và rình rập cơ hội thuận tiện.

Thứ hai, nếu từ 14-9-1958 đến 30-4-1975, Công Hàm của Phạm văn Đồng có tỳ vết, là đi bán đất nhà ngươi, có thể bị coi là vô giá trị. Nhưng từ sau ngày 30-4-1975 cái Công Hàm ấy lại ẩn chứa một giá trị mới phát sinh. Bởi lẽ, Bắc Việt đã chiếm miền Nam, đã thiết lập sự cai trị tại đây. Hiệp định năm 1954 về Việt Nam coi như bị xóa bỏ sau khi CSVN tuyên bố thống nhất hai miền nam bắc. Sau cuộc hiệp thương thống nhất, chủ quyền trên Hoàng Sa và Hoàng Sa đương nhiên thuộc về nhà cầm quyền đương thời. Tuy nhiên, từ đó đến nay, họ đã không có bất cứ một văn bản đồng cấp, hay ở cấp cao hơn nào với nội dung xác định sự vô giá trị của công hàm ngày 14-9-1958, bằng một lý do mạnh mẽ như: Khi nước VNDCCH thống nhất đất nước thì đồng thời cũng thu hồi chủ quyền của Việt Nam trên hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà trước đây thuộc chủ quyền của chính phủ VNCH tại miền nam theo theo tinh thần hiệp định Genève 1954. Nay, công hàm này xóa bỏ hoàn toàn gía trị và bản văn của công hàm ký ngày 14-9-1958 về chủ quyền 12 hải lý của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa bởi những tỳ vết của nó. Đồng thời thời nhà nước VNDCCH công bô tiếp tục thực thi chủ quyền đầy đủ của Việt Nam trên Hoàng Sa và Hoàng Sa theo tinh thần những văn bản pháp lý của quốc tế tại Cairo và hội nghị Sans francisco 1951 về Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu có được một bản văn như thế, Trung cộng có muốn chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, muốn giữ đường lưỡi bò cũng khó.

Tuy nhiên, họ đã không lên tiếng. Sự không lên tiếng này đã là một thiếu sót nghiêm trọng mang tính cách Tự Tử Bỏ Chủ Quyền của Việt Nam trên đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (vì họ đã thực tế thu hồi chủ quyền trên đảo theo điều ước của hiệp định genève 1954 khi ký hiệp thương thống nhất hai miền Nam Bắc vào ngày 21-11-1975). Đã thế, sự kế thừa, tiếp quản nền hành chánh liên tục của cộng sản tại Việt Nam từ sau Phạm văn Đồng đến nay, mà không có bất cứ một văn bản đồng cấp nào lên tiếng về Hoàng Sa và Trường Sa, nên nó tạo ra một giá trị thực tế là CSVN đã công nhận vai trò pháp lý trong công hàm của Phạm văn Đồng. Theo đó, những người kế nhiệm Đồng phải tiếp tục bảo vệ công hàm này thay vì phản bác. Từ sự yên lặng, mang tính pháp lý này đã trói buộc cộng sản Việt Nam vào thế không thể chống đỡ với những lý lẽ từ phía nhà cầm quyền Trung cộng. Họ luôn dựa vào bản công hàm này mà lý luận. Từ cơ sở đó, tạo cho Trung cộng cái thế chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là của họ. Và đồng thời cũng tạo cho họ vị thế để bảo vệ 200 hải lý theo quy ước về đặc khu kinh tế từ bờ nước Hoàng Sa và Trường Sa.

Ai cũng biết công ước quốc tế về các quốc gia ven biển vào vào năm 1982 xác minh rằng. “các quốc gia ven biển được hưởng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở, bao gồm phần lãnh hải (12 hải lý) vùng tiếp giáp lãnh hải (12) hải lý (không bao gồm vùng nội thùy). Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác đối với tất cả các tài nguyên thiên nhiên”. (wikipedia).

Dĩ nhiên, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về quốc gia ven biển, nhưng tự nó không thể được nhìn nhận như một ven biển thực thể của một quốc gia ven biển để được hưởng quy chế nội thùy và vùng đặc quyền kinh tế 200 Hải lý. Tuy nhiên, vào ngày 24 tháng 7- 2012, Trung Cộng đã công bố việc thành lập thành phố Tam Sa trên những quần đảo này. Mục địch của sự thành lập là muốn biến nó thành bờ đất liền để tranh đoạt lấy 200 hải lý về đặc khu kinh tế. Việc làm này không dễ dàng gì, nhưng cái vuốt của con cá lớn cứ dương ra như thế để thách đố. Thách đố với thế giới và láng giềng. Trong số láng giềng ấy, có Việt Nam được coi là quan trọng và đủ lý lẽ nhất, nhưng xem ra lại là một nước bạc nhược và có phản ứng yếu ớt nhất. Sự yếu ớt và bạc nhược này bắt nguồn và bị trói buộc vào cái công hàm của Phạm văn Đồng. Theo đó, thời gian càng kéo dài, cái giá trị của công hàm càng lớn.

c. Nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam đã giải quyết khúc mắc này ra sao?

Bên cạnh việc nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam không hề có bất cứ một văn thư đồng cấp nào để xóa bỏ, vô hiệu hóa công hàm của Phạm văn Đồng làm cho Việt Nam mất tiếng nói. Họ còn vấp phạm một sai lầm vô cùng nghiêm trọng khác trong lãnh đạo là treo cái bản đồ có hình lưỡi bò trong văn phòng làm việc của thủ tướng (theo bản tin của Dân làm Báo ngày 17-3-14)! Sai phạm này là do kém hiểu biết hay có chủ ý? Nhưng dù là từ kém hiểu biết hay cố ý. Chính nó đã là nguyên nhân trực tiếp đưa đến nhiều cái chết của người chiến binh Việt Nam tại Gạc Ma. Đưa đến nhiều cái chết, hay bị thương, bị bắt, bị đòi tiền chuộc từ phía Trung cộng tạo ra cho ngư dân Việt Nam trong khi họ hành nghề lưới trên vùng biển được cho là của Việt Nam, nhưng thực tế là không phải. Bởi lẽ:

Ai cũng biết, văn phòng thủ tướng là cơ quan hành chánh cao nhất trong nước. Theo đó, tấm bản đồ của tổ quốc treo ở đây nói lên một số điểm chính yếu, buộc văn phòng và toàn thể nhân viên nội các phải tuân thủ là.

Thứ nhất. Bằng tất cả mọi khả năng của mình được luật pháp trao phó, HD chính phủ phải bảo vệ trọn vẹn phần cương vực thuộc đất liền, sông ngòi, đồi núi và biển cả được quy định trên tấm bản đồ của tổ quốc.

Thứ hai. Phải phân bổ nhiệm vụ và quản trị hành chánh trên toàn cương vực của lãnh thổ theo tấm bản đồ của quốc gia quy định. Phải bảo vệ quyền lợi của tỏ quốc, bảo vệ quyền lợi và sự an toàn cho dân chúng, đồng thời phải đảm bảo một nền hành chánh công bình đối sử vời tât cả mọi công dân theo quy định của luật pháp.

- Đối với kiều bào sinh sống ở hải ngoại, nội các phải có trách nhiệm liên đới để bảo vệ quyền lợi của họ theo luật pháp của quốc tế và luật pháp của quốc gia sở tại nơi họ sinh sống.

Nay tấm bản đồ có hình lưỡi bò khổ lớn đã được treo trên tường, trong văn phòng, phòng làm việc, phòng họp của thủ tướng Việt cộng. Nó như một lời xác minh rằng đó là bản đồ hình thể, hành chánh của VN. Xác minh rằng, nhà nước CHXHCNVN chỉ công nhận quyền hạn và trách nhiệm của chính phủ được đặt để trong phạm vi của tấm bàn đồ đã được nhà nước xác định và treo ở đây. Nghĩa là thủ tướng và nội các do nhà nước CXHCNVN bổ nhiệm chỉ có nghĩa vụ bảo vệ cương vực của tổ quốc, quyền lợi của đất nước theo quy định của tấm bản đồ có hình lười bò chỉ dẫn mà thôi. Như thế, vùng biển nằm trong vòng cung lưỡi bò, bao gồm cả đảo Hoàng Sa và Trường Sa, (mà nhiều người cứ cho là của Việt Nam), cũng như bên kia đường biên của đất liền, không thuộc quyền quản lý trong nền hành chánh của nhà nước CHXHCNVN? Theo đó, những người dân Việt đi vào vùng lưỡi bò, vượt qua đường biên giời trên đất liền, đã đi ra ngoài sự bảo vệ trực tiếp của nhà nước, họ phải chịu sự chế tài theo qụy định và luật lệ của nước có chủ quyền. CP nước CHXHCNVN không thể tự tiện bảo vệ họ như họ hiện đang ở trong vùng lãnh hải hay nội địa của mình!

Nếu đúng như thế, việc càng ngày càng có nhiều ngư dân cũng như tàu cá của họ đi đánh bắt cá, thả lưới ở vùng Trường Sa, Hoàng Sa mà họ cứ cho là của Việt Nam, đều bị Trung cộng bắt bớ, đánh đập, tịch thu sản vật còn bắt giữ người và đòi tiền chuộc nữa, mà nhà nước Việt cộng không dám có phản ứng đúng mực như người có chủ quyền, không có gì lạ. Kế đến, việc có nhiều người ở trong nước bị bắt, bị kết án vì biểu tình chống xâm lược với những biểu ngữ Trường Sa Hoàng Sa là của Việt Nam cũng là lẽ thường.

Từ đó cho thấy, cái lưỡi càng lúc càng trở nên một thế lực mạnh mẽ và nguy hiểm cho dân ta còn hơn hơn cả Savastopol của Crimea. Kết quả, Nga đã nuốt chửng Crimea. Thế giới đành chống mắt lên mà nhìn! Theo đó, Việt Nam có thể sẽ là câu chuyện kế tiếp trong sớm tối. Bởi vì, trong bài trước (cách đây khoảng 10 ngày) Tôi võ đoán câu chuyện của Ukraina sẽ không dừng lại ở Crimea. Nay đã có chứng minh là không dừng lại và còn đi nhanh hơn tôi tưởng. Theo tin RT “Những người thân Nga ở vùng Donetsk, miền đông Ukraine, hôm nay 8-4-14 bỏ phiếu đồng thuận về tuyên bố thành lập một quốc gia độc lập, sau khi tổ chức chiếm giữ các tòa nhà chính quyền ở địa phương”. Thế giới nói chung, Tây Âu với Mỹ, nói riêng, sẽ làm gì? Bạn có nhảy vào để rước lấy tai họa không?

Theo đó, câu chuyện ở Đông Dương cũng có thể có chung một mẫu số. Ngoài biển, cái lưõi bò đã liếm hết phẩn biển của Việt Nam, nó tạo thành một cái vòng cung nhốt chúng ta vào trong rọ. Phần nội địa, nhân sự và cơ sở đã được nhà nước Việt cộng xếp đặt sẵn sàng từ mấy chục năm qua. Nay gặp thời cơ chín mùi, đảng và nhà nước CS cũng như những người “thân” Trung cộng muốn chiếm lấy một vài tòa nhà, cơ quan nào đó được gọi là của chính phủ và nổ ra một cuộc đòi tự trị, và đem cái lá cờ một sao của Phúc Kiến do Hồ chí Minh mang về, xin thuần phục lá cờ 5 sao của Trung cộng cũng không phải là việc ngoài tầm tay của họ. Bởi vì, họ đã có người, có cơ sở, lại có cả thùng phiếu và công an, quân đội trong tay, họ làm gì chả được? Theo đó, nếu chuyện ấy xảy ra ở Đông Dương trong tuần tới, tháng tới, hay năm tới cũng không có gì lạ. Con thái thú lại làm quan thái thú, một đời thay nhau ấm lộc?

Trước viễn ảnh đen tối của lịch sử do Việt cộng xếp đặt sẽ đổ ụp xuống trên đầu, trên cổ 90 triệu dân Việt Nam, chúng ta có phương cách nào để cứu vãn hay không? Chúng ta phải làm gì đây? Có tạo nổi một cuộc biến động để cứu nước hay ngồi chờ chết?

Theo tôi, điều lý tưởng nhất là, những người trong hàng ngũ lãnh đạo, cầm quyền tại Việt Nam, nếu còn nghĩ đến tương lai của dân tộc, hãy học lấy tấm gương của Ngô Vương Quyền, của Quang Trung mà đứng dậy, mở ra một cánh cửa cho đất nước tiến về phía trước, bằng cách:

- Loại bỏ điều bốn hiếp pháp.

- Loại chính trị ra khỏi các tổ chức võ trang là quân đội và công an.

- Loại bỏ mọi quyền hạn của mọi cấp ủy của đàng cộng sản từ Trung Ương tới địa phương ra khỏi mọi sinh hoạt trong xã hội.

- Giữ lại guồng máy hành chánh, quốc hội, các bộ phận cơ cấu liên ngành hiện tại và dần dần được thay tế bằng những cuộc đầu phiều phổ thông trong tương lại để chọn đại biểu trong quốc hội cũng như các cấp hành chánh trung ương, tình lỵ, thành phố, phường xã.

- Tạm thời đóng cửa biên giới và kiểm soát gắt gao những thành phần cư trú bất hợp pháp cũng như những sản phẩm, nhu yếu phẩm du nhập vào Việt Nam. Và rất cần thiết phải ban hành một quy chế cho ngoại kiều.

- Tư nhân hoá và cho tự do báo chí và hệ thống internet.

Đối ngoại, bằng một văn thư chínhh thức đưa ra trước công luận thế giới một văn bản. Nhận lấy trách nhiệm sai lầm trong công hàm của Phạm văn Đồng để chính thức rút lại hay huỷ bỏ nó vì có những tỳ vết của nó. Đồng thời xác định Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam với các bằng chứng lịch sử và thực tế chủ quyền liên tục trên đảo. Sẵn sàng đối chất, đưa Trung cộng ra trước tòa án quốc tế vì việc chiếm hữu đất đai, vùng biển của Việt Nam trái với công ước 1982.

Được như thế, tôi tin rằng, với sức mạnh của hơn 90 triệu con tim, chắc chắn TC không dám vượt biên xâm chiếm. Từ đó chúng ta có nhiều cơ hội để đưa Việt Nam vào một vận hội mới. Mở ra một cuộc canh tân toàn diện cho đất nước. Cuộc canh tân này có khả năng thu phục mọi thành phần dân tộc cùng hướng về tương lai. Trước là bảo vệ đất nước, sau là đưa Việt Nam vào bước đường hưng thịnh, đem lại cuộc sống Tự Do, Ấm No, Hạnh Phúc cho người dân.

Tóm lại, trước những diễn biến quá nhanh ở Ukraina với những bất lợi cho người Ukraina yêu tổ quốc của mình, buộc chúng ta phải sớm có một chọn lựa dứt khoát cho đất nước và dân tộc của chúng ta. Một là cùng nhau đứng lên bảo vệ sự Độc Lập và vẹn toàn lãnh thổ. Bảo vệ lấy đời sống, hạnh phúc của chúng ta và con cái chúng ta. Hai là lặng lẽ buông xuôi, học tiếng Tàu, theo Hồ chí Minh để được làm chư hầu, làm một tỉnh bang của Trung cộng. Ngoài ra khó có một giải pháp toàn diện, tốt đẹp khác.

Đã đăng: Việt Nam, về đâu?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét