Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng (50)
Cuốn “Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại – Việt Nam Quốc Dân Đảng” của cụ Hoàng Văn Đào là một tài liệu lịch sử sống về công cuộc đấu tranh cận đại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, website http://www.vietquoc.org sẽ lần lượt phổ biến rộng rãi đến người Việt trong và ngoài nước để thấy sự thật của lịch sử. Dưới đây là Thiên Phụ/Chương II: “Thi Văn Ca Kịch Của Các Nhà Cách Mạng Việt Nam Quốc Dân Đảng”
Thi Văn Ca Kịch Của Các Nhà Cách Mạng
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Mấy Lời Ký Thác của nhà cách mạng Phan Sào Nam
Cô Khóc Cậu (cô đây là Cô Giang)
Thình lình một tiếng sét ngang lưng,
Nuốt nghẹn tình tơ xiết nói năng.
Mây mịt mờ xanh, trời vẫn hắc,
Giọt chan chứa đỏ, bể khôn bằng!
Thân vàng đành cậu liều theo cát,
Dạ tuyết thôi em gởi với trăng.
May nữa duyên sau còn gặp gỡ,
Suối vàng cười nụ có ngày chăng!
Hồn Cậu Trả Lời (Cậu là Nguyễn Thái Học)
1
Gặp mình, mình lại thẹn cùng mình,
Ai khiến em mà vội gặp anh?
Vẫn nghĩ hữu chung vi hữu thủy.
Thôi thì đồng tử chẳng đồng sinh,
Trăm năm cuộc bụi, dâu hay bể?
Một tấm lòng son, sắt với tình.
Gió dữ mưa cuồng thây kệ nó,
Dắt nhau ta tới tận thiên đình.
2
Dắt nhau ta tới tận thiên đình
Quyết dẹp cho yên sóng bất bình.
Mặt nước em còn hồng giọt máu,
Nợ đời anh chửa trắng tay tanh,
Trăm năm thề với trời riêng đội,
Bảy thước âu là mẹ chẳng sinh.
Mình hỡi mình đừng buồn bã quá,
Hồn còn mạnh khoẻ, phách còn linh.
Chị Khóc Em (Chị là Cô Bắc)
(Khi được tin em chết theo người yêu)
1
Em ơi! Em vậy, chị thì sao?
Ghê gớm mà cùng tiếc biết bao!
Chung nợ cha sinh và mẹ dưỡng,
Rẽ đường vực thẳm với bờ cao,
Ngại ngùng gió yếu, mây trơ mực,
Tức tối trời say, máu úa đào.
Hồn có linh thiêng, dùm tính nhỉ,
Mẹ già, em bé, nghĩ thương nao!
2
Mẹ già, em bé, nghĩ thương nao!
Và nợ chồng con nặng biết bao!
Nổ đất thình lình tay vỗ kép,
Nhuộm trời ghê gớm máu phun đào,
Giữa trường tân khổ no cay đắng,
Trước phận phong ba nổi gió trào.
Chị có ngờ đâu em đặng thế!
Biển ngần ấy rộng, núi ngần cao
Phan Sào Nam
Khóc Nguyễn Thái Học (của Nhượng Tống)
Nhục mấy trùng cao, ách mấy trùng,
Thương đời không lẽ đứng mà trông!
Quyết quăng nghiên bút xoay gươm súng,
Đâu chịu râu mày thẹn núi sông,
Người dẫu chết đi lòng vẫn sống,
Việc dù hỏng nữa, tội là công.
Nhớ anh nhớ lúc khi lâm biệt,
Cười khóc canh khuya chén rượu nồng.
Nhượng Tống
Bất Di Thi (của Lam Giang)
Vĩnh Phúc phong trần hậu,
Hàn vân quyển biệt ly!
Thánh nhân tồn cổ huấn.
Chiến bại bảo tàn kỳ,
Thiên viễn tăng cô phẫn,
Tâm hùng thệ bất di,
Cầu an vô ẩn giả,
Quốc vận bởi trường bi,
(tạm dịch)
Vĩnh Yên từ gió bụi mờ,
Biệt ly mây biệt bơ vơ ngàn trùng,
Thánh nhân lời dặn hào hùng,
Ngọn cờ chiến bại, kiên trung vẫn còn,
Trời xa xót nỗi cô đơn,
Lời thề vàng đá chưa sờn chí trai!
Cầu an đâu xứng anh tài,
Lẽ đâu vận nước còn dài thê lương!
Lam Giang
Tưởng Niệm Nguyễn Thái Học (Nguyễn Phan An)
Yên Bái đầu rơi một sớm nào.
Lòng son ngời sáng với trăng sao…
Vì dân dựng Đảng, ôi! Xương trắng,
Vì nước ra công, hỡi! Máu đào!
Cách mệnh chưa thành! Sông núi khóc,
Tài mưu sớm thác! Gió mưa gào.
Hai mươi tám tuổi “thành nhân ấy”,
Trang sử ngàn thu đã bước vào.
Nguyễn Phan An
Hoài Niệm Anh Linh Nhượng Tống (Nguyễn Phan An)
Từ ngày anh lặng lẽ qua đời,
Trường văn, nghiệp báo loạn tơi bời,
Một lũ đầu cơ văn nghệ ấy,
Làm mưa làm gió khắp bao nơi!
Anh thác hồn anh có nhẹ nhàng,
Đòi phen gió lạnh nhắn thu sang.
Tôi từng đốt nến thương anh đấy,
Suốt một đời thơ máu lệ tràn!
Anh chết không kèn trống tiễn đưa,
Không người nhắc lại chuyện ngày xưa,…
Có người cách mạng mà thi sĩ.
Gác chuyện ân tình đạp gió mưa.
Ôi! Xót xa là một kiếp “Anh”!
Uổng thay thánh thót tiếng hoàng oanh!
Ca cho vỡ cổ xù lông đấy,
Đời hiểu gì đâu lũ lợi danh.
Chuyện cũ cùng nhau lộng tới giờ,…
Mòn chân tranh đấu vẫn trơ vơ!
Một vì dân tộc giang sơn ấy,
Thà chết không thà chịu nhuốc nhơ!
Anh chết rồi đây ai nhớ đâu!
Mình tôi thao thức giữa đêm sâu,
Khóc cho máu lệ trào ra mắt,
Còn lại gì qua lớp biển dâu!
Thôi xót xa chi chuyện đổi đời.
Của phường cơ hội hỡi anh ơi?
Những người cách mạng mà son sắt,
Càng chịu cô đơn tới mãn đời!
Anh chắc cùng anh HỌC thuở xưa,
Giờ đây cùng nói chuyện say sưa…
Những ai đã chết vì dân tộc.
Hương khói ngàn thu sẽ tiễn đưa.
Nhất định rồi qua lũ lợi danh,
Rồi qua, qua hết chuyện phân tranh,
Không! Không! Tín nghĩa ngời thiên cổ,
Trang sử ngày sau sẽ chép anh.
Nguyễn Phan An (1)
————–
(1) Nguyễn Phan An là bào đệ Nguyễn Ân, nguyên quán tại tỉnh Quảng Nam. Quá phẫn uất về CS hoàng hành, mà hàng ngũ chiến sĩ quốc gia bị phân hóa trầm trọng. Nguyễn Phan An đã mắc bệnh loạn trí, hiện nằm điều trị tại nhà thương Biên Hòa (1967).
Thay lời vợ Tặng Quạt Cho Chồng Trong Ngục Thất, 1929 (Nguyễn Văn Phác)
Gạt lệ đưa anh chiếc quạt này,
Khi buồn cầm đến để vui tay.
Xua con muỗi đói đang rình đốt,
Đuổi cái ruồi hôi chực quấy rầy,
Phong lại nhớ nhung lời ước cũ,
Mở ra phe phẩy đỡ cơn may.
Tình em gởi quạt khi phong mở,
Gạt lệ đưa anh chiếc quạt này.
Nguyễn Văn Phác
Hát Nói ( Làm tại Hỏa Lò, Hà Nội, 1929 – Phạm Tuấn Tài)
Miễu
Trông người lại ngẫm đến ta,
Nín đi đứt ruột, nói ra nghẹn lời.
Than ôi! Cũng một kiếp người,
Tủi thân trâu ngựa thiệt đời thông minh.
Nói
Trâu cày ngựa cưỡi,
Nghĩ thân mình thêm tủi lại thêm thương,
Cũng thông minh tai mắt một phường,
Người mắc ách, kẻ giong cương, kỳ quái chửa!
Thà rằng thể phách như trâu ngựa,
Khổ nỗi tâm hồn khác cỏ cây.
Nhìn giang sơn khi quắc mắt lúc cau mày,
Tưởng nông nỗi đắng cay lòng tráng sĩ!
Nước đời cay đắng bao nhiêu vị?
Giống ươn hèn càng nghĩ lại càng thương!
Bảo nhau ta phải tự cường!
Phạm Tuấn Tài
Sà-lim Oán (Sà-lim Hà Nội năm 1929 – Thẩm Chi tức Cả Vấn )
Đầy ám ngục hơi sầu ảm đạm
Nát tâm bào lửa hận cháy gan.
Một mình lăn lóc trên sàn,
Đắng cay nước mắt, nhà tan thân tù!
Trong cửa kín sớm hôm chẳng biết,
Ngoài đồng bào chết sống không hay!
Than ôi! Nông nỗi nước này!
Đôi phen hồn ngất máu say vì thù!
Lòng héo hắt cơm bơ nước gáo,
Thân võ vàng xiêm áo tả tơi!
Nghiến răng muốn đập tan trời!
Tủi thân nô lệ, căm loài dã man.
Giận cho kẻ tham vàng phụ nghĩa,
Đem anh em bán rẻ cho người.
Bạc đen chi mấy thói đời!
Nước non đành để cho người chủ trương.
Cơ thành bại nát gan tráng sĩ,
Cuộc hưng vong ráo lệ anh hùng,
Thương thay con cháu Lạc, Hồng,
Vì đâu cá chậu chim lồng xót xa!
Hồn tinh vệ bao giờ lấp bể?
Công dã tràng thương kẻ đồng tâm.
Giọt sầu lã chã khôn cầm!
Dao oan nghiệt cắt ruột tầm đòi cơn.
Ngoài song sắt mưa buồn gió thảm,
Bên tường nghe tiếng bạn thở than.
Vì đâu nên cuộc dở dang!
Vì đâu sẩy nghé tan đàn thảm thương!
Lòng rầu rĩ canh trường khó nhắp,
Đêm năm canh thổn thức đòi cơn.
Hỡi ai dạ sắt gan vàng?
Cùng nhau trong hội đoạn trường là đây!
Thẩm Chi tức Cả Vấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét