13 tháng 8, 2013

“Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc” Lúc Này Vẫn Còn Là Trò Bịp Bợm


Nghịch Lý “Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc”
Cụm từ “Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc” nghe thì có vẻ “suôi tai”, nhưng thực tế, rất tế nhị và hiện còn nhiều nghịch lý chưa giải toả.  Không phải cứ sau một thời gian dài, 30 hay 40 năm chẳng hạn, đương nhiên nước bùn sẽ trong vắt để người ta có thể vui vẻ nhập cuộc “ta về ta tắm ao ta” một cách vô tội vạ — vô thưởng vô phạt, vô điều kiện, như một cuộc sum vầy vui thú “mại-dzô-trăm-phần-trăm”, hay nhẹ dạ, chín bỏ làm mười cho xong việc, huề-cả-làng. 

Trước hết, về mặt thuận tính, vấn đề “Hoà Hợp Dân Tộc” không thể có trước việc “Hoà Giải Dân Tộc”, nghĩa là phải “Hoà Giải Dân Tộc” bằng cách “hoá giải” hay giải quyết xong những vấn đề căn bản liên quan tới tình trạng chia rẽ, ly khai, phương hại dân tộc, mới có hy vọng đưa đến “Hoà Hợp Dân tộc”.  Vậy trong tương lai, nếu còn dùng những từ ngữ này, xin ưu tiên hoá và tham luận “cụm từ” này thành hai nhịp: “Hoà Giải” trước,  “Hoà Hợp Dân Tộc” sau.  Nếu ghép chung thì phải là “Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc”.
Nguồn Gốc thuật ngữ “Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc”
Cụm từ ngược chiều “Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc” hay thuận chiều “Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc” đều bắt nguồn một phần nào từ Điều luật Xúc Tiến Hoà Hợp và Hoà Giải Dân Tộc [Promotion of National Unity and Reconciliation Act][1] được ban hành sau khi chế độ kỳ thị Apartheid đã bị bác bỏ tại Nam Phi.  Mục đích của Hai phe thương thuyết [giữa Cựu Quyền Apartheid và các Tổ chức Giải phóng gồm có Nghị Hội Dân Tộc Phi Châu/African National Congress] là sớm thực hiện đoàn kết dân tộc bằng đường lối hoà giải, chú trọng đích thực phục hồi công lý [restorative justice][2] hơn là ra tay trừng phạt pháp định [punitive justice] theo đường lối tố tụng Nuremberg đối với các tội phạm Đức Quốc Xã. 
ANClogo.png
African National Congress logo
Để thực hiện Điều luật Xúc Tiến Hoà Hợp và Hoà Giải Dân Tộc  trênỦy Ban Xác Định Sự Thật và Hoà Giải [Truth and Reconciliation Commission (TRC)] đã được thành lập trong năm 1996 tại Cape Town, gồm một số thân hào nhân sĩ trung trực như Tổng Giám Mục Desmond Tutu (chủ tịch Ủy Ban), Dr. Alex Boraine (Phó Chủ Tịch UB), Mary Burton, Luật sư  Chris de Jager, Bongani Finca, Pumla Gobodo-Madikizela, Sisi Khampepe, Richard Lyster, Wynand Malan, Reverend Khoza Mgojo, Hlengiwe Mkhize, Dumisa Ntsebeza (Trưởng Khối Điều tra), Dr. Wendy Orr, Luật sư Denzil Potgieter, Mapule Ramashala, Dr. Faizel Randera, Yasmin Sooka and Glenda Wildschut.
Ủy Ban TRC phân nhiệm thành ba Tiểu Ban:
  • TB Điều tra Vi Phạm Nhân Quyền [The Human Rights Violations Committee];
  • TB Hoà Giải và Bồi Hoàn [The Reparation and Rehabilitation Committee];
  • TB Ân Xá [The Amnesty Committee].
Ủy Ban TRC thi hành các biện pháp ôn hoà “phục hồi công lý” căn cứ vào việc [a] thu thập tài liệu và nhận cung khai về những vi phạm nhân quyền, [b] để quyết định giải pháp sửa sai, bồi hoàn trên căn bản thuần công lý — pháp lý công bình — [equity justice] như hoàn trả, bồi thường, hồi chức, bù đắp tương xứng mọi thiệt hại trong quá khứ giao tranh, [c] và chỉ trừng phạt những sai phạm quá đáng, bất khả miễn trách vì lạm quyền, lạm dụng.  [d] Tất cả những quân, cán, chính đối tác đều được hưởng miễn trách hay ân xá [amnesty] nếu thi hành đúng mức nhiệm vụ giao phó, dù ở bất cứ phe nào.  
Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam có Thực Tâm và Khả Năng “Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc” không?
Hơn 70 năm qua, từ lúc thành lập bán khai, rồi lô diện, đảng phái và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không bao giờ tôn trọng nguyên tắc thực thi giải pháp “Hoà giải Hoà hợp”, ở bất cứ môi trường nào, từ liên hệ đồng minh chính trị tới cơ bản đối phó dân tộc, qua những giai đoạn sau đây:
  • Trong cuốn “Thành ngữ – Điển tích – Danh nhân Từ điển” của tác giả Trịnh Vân Thanh (Trịnh Chuyết), do Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2008, có ghi như sau: “Năm 1925, nghe theo lời của Lý Thụy và Lâm Đức Thụ, Phan Bội Châu gia nhập vào tổ chức “Toàn thế giới bị áp bức nhược tiểu dân tộc“, nhưng sau đó Lý Thuỵ và các đồng chí lập mưu bắt Phan Bội Châu nộp cho thực dân Pháp để (1)Tổ chức lấy được một số tiền thưởng (vào khoảng 15 vạn bạc) hầu có đủ phương tiện hoạt động. (2) Gây một ảnh hưởng sâu rộng trong việc tuyên truyền tinh thần ái quốc trong quốc dân“.  Trong giai đoạn đó, cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.  Vậy, chính Hồ Chí Minh, ẩn danh Nguyễn Ái Quốc,  ẩn danh Lý Thụy đã phản “đồng chí” nhất thời của mình vì một quyền lợi nhỏ nhoi, và nhất là vì ghen ghét, tranh giành ảnh hưởng.  Tư Tưởng Hồ Chí Minh xây dựng trên căn bản bí ẩn, xảo trá, phản trắc, dùng người như vật dụng nhất thời [“vắt chanh bỏ vỏ”] để tiêu hủy [“thủ tiêu”], trao đổi khi hết cần tới, hay khi có lợi lộc khác. Đối với Hồ Chí Minh và các đồng chí cộng sản, cứu cánh biện minh cho phương tiện, kể cả thủ đoạn đê hèn nhất [la fin justifie les moyens].  Cái dã tâm là cứu cánh của họ không có mục đích chính đáng, vì phỉnh gạt, lừa lọc.
  • Ứng dụng tư tưởng căn bản trên, năm 1941, Đảng Cộng sản họp ở Cao Bằng đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) để ‘mượn đầu heo nấu cháo”, gây thêm lực lượng, kết tụ “đồng minh giai đoạn” dưới chiêu bài “ái quốc”, chống Pháp, giành độc lập: “Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.”  Sau đó vài năm, thành phần cộng sản bắt đầu loại trừ các hệ phái quốc gia trong “Mặt trận Liên Việt”: Cán bộ cộng sản thẳng tay tiêu diệt các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân v.v., dù có lúc họ cùng nhiệt thành sát cánh chống Pháp.
  • Cũng theo chiêu bài lợi dụng “đồng minh nhất thời” trên, lực lượng cộng sản miền Bắc đã xâm nhập miền Nam và tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào năm 1960.  Lực lượng Việt Cộngmiền Nam trá hình này sau 1975 cũng bị “thất sủng”, các lãnh tụ cuả “Mặt trận” cũng bị thủ tiêu, hoặc đi “cải tạo” như kẻ thù phản động.  Đồng chí hôm trước, kẻ thù hôm sau: Hoà Giải Hoà Hợp “Nhất Trí” ở đâu? Hỏi là trả lời: không hề có, ngay cả trong nội bộ đảng phiệt với nhau.
  • Đương nhiên, đối với kẻ bên kia chiến tuyến, khi là thành phần thua trận, kẻ thắng chỉ cần gọi họ là “ngụy”, là tội phạm lý tưởng, họ sẽ bị vơ vét của cải, cướp đoạt nhà cửa, đánh tư sản, rồi từng đợt, từng đợt đi “cải tạo”, nghĩa là “được” cải huấn tù đày, “được” tra tấn, hành hạ chục năm này sang chục năm khác, liên tiếp, theo khuôn khổ Gulag lao động vinh quang chính thống.  “Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc” ở đâu? Có chỗ nào gọi là “phục hồi công lý”, là ân xá, là đoàn kết dân tộc?  Người cộng sản Việt Nam tước đoạt nhân phẩm, tài sản và sức sống của người dân thất thế một cách tàn nhẫn, dã man.  Họ độc ác, khốn nạn hơn lũ mật thám thực dân Pháp đối với dân bản xứ, thời thuộc địa.  Kẻ thù đồng tộc, đồng chủng tệ hại như vậy, mặt mũi nào còn gọi nhau là “anh-em” được nữa?  “Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc” hầu như vô nghĩa đối với người cộng sản, khi họ chỉ biết một chiều tư duy, một hướng nhìn, một hướng cai trị, một hướng sinh tồn: độc đảng, độc tôn, độc nhất, vô nhị, ngoài họ ra không còn ai nữa, dù sau họ là lụt lội, là phá sản.
  • Kể cả “đồng bào” của người cộng sản, dù được tuyên truyền tung hô là “dân làm chủ”, bất cứ lúc nào cũng sống trên đe dưới búa và dưới lưỡi liềm sát cổ.  Làm sao có “Hoà Giải Hoà Hợp Dân tộc” đối với gần 90 triệu người dân hôm nay, cũng như đối với ông cha họ trước kia đa số nông dân, khi đội ngũ chủ soái mác-xít trá hình “công bộc” chỉ biết nuôi dưỡng căm thù, tranh đấu giai cấp, đấu tố tư sản, đấu tố phú nông, sát hại địa chủ? Đó là những đợt “cải cách ruộng đất”, cố sát tập thể từ năm 1953 tại vùng Thanh Hoá, Liên Khu IV tới năm 1956, trên khắp miền Bắc, dưới sách động trực tiếp của Trường Trinh, Tổng bí thư Đảng và đương nhiên dưới quyền chỉ đạo của thủ lãnh Hồ Chí Minh.  Mọi chương trình hại dân, thổ phỉ đều rập khuôn theo mưu đồ Trung cộng.
  • Tội nghiệp, không những giới bần cố nông bị lợi dụng, phân tán, thanh lọc lẫn nhau, mà cả giới trí thức cộng sản, hay không cộng sản, cũng bị bôi bác, xếp hạng không hơn “cục phân”[3] [sic] của các lãnh tụ cộng sản — lũ lượt ăn phải đũa Mao.  Họ khinh rẻ nhau, khinh rẻ thuộc hạ. Dĩ nhiên, các nhà trí thức mất giá đến độ “phi thường”.  Trong những năm vừa qua, trước khi bỏ tù các các nhà dân chủ, trước khi bịt miệng, rẫy đuổi nhà tu hành, chính quyền Hà Nội thường đem công an và xã hội đen thẳng tay đổ phân người vào nhà các nạn nhân.  Họ đã “xử lý” như vậy đối với các thành phần ly khai như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Khoa Điềm, và gần đây, đối với gia đình nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn, Huỳnh Thục Vy.
  • Kể cả nữ sĩ cựu trí thức cộng sản Dương Thu Hương đã có lần long trọng tuyên bố trước công luận Tây Phương: “Tôi trở lại Việt Nam là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền” (sic). [“Mon seul but, c’est déféquer sur les visages du pouvoir”]:[4] Tôi mong là một nhà trí thức như Bà, dù cộng sản hay không cộng sản, cũng không dám nhúng tay vào chất nhơ bẩn như vậy, hay không nỡ có hành động hạ cấp như thế.  Tôi rất mong ngòi bút BIC mực nguyên tử của Bà chắc phải thơm tho hơn cái bô ô uế của Đảng nhà.  Nhưng có lẽ con người cộng sản tự đắc có thói  quen sinh sống với đồ thải vệ sinh thường nổi lềnh bềnh nơi cống rãnh tư nhân và công cộng, nên đã tạo dựng được một xã hội phôi thai với nền văn hoá phân-phối vô sản cộng sinh, cộng hưởng, như một thứ nhân cách tính nhị đẳng [seconde nature], từ từ diễn tiến ngấm nhập thành chính gốc, thành chính thống.  Người Hà-Lội ngày nay nà thế [sic].  Họ trân trọng “hoà giải hoà hợp nhau” tận tình phân bộ như vậy, với thứ văn minh vô sản rẻ tiền của dân tứ xứ gốc “Kẻ-Noi”[5] truyền tụng lại.
  • Còn thành phần những người Hà Nội trước 54, khi phải di cư vào Nam, rồi phải tỵ nạn nơi “đất khách quê người”, nay thấy đau lòng khi được tin Bà Irina Bokova, Tổng Giám đốc Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã chính thức từ chối công nhận Phố Cổ Hà Nội là di sản văn hóa thế giới.  Muối mặt hơn thế nữa, khi phải nghe sự thật phũ phàng là  “…Tháp rùa của các bạn đã được “vôi ve” từ cách đây 20 năm, cùng đợt với ngôi chùa Trấn Quốc…Ủy ban điều tra độc lập cho rằng Tháp rùa chỉ có tuổi thọ là 20 và vẻ cổ kính là ngẫu nhiên khi chất lượng vôi ve thấp và được làm cẩu thả một cách tình cờ…[NHƯNG] Thật thích thú khi đi trên phố Hàng Bạc chúng tôi bất ngờ bắt gặp một nhà vệ sinh trên ban công tầng hai. Nếu các bạn gìn giữ được những di tích này, hy vọng trong tương lai, Unesco sẽ xem xét lại việc công nhận cho Hà Nội”.[6]  Đau quá, cả một thành phố trước đây mơ mộng, đã từng được yêu chuộng, ca tụng bởi bao nhiêu thế hệ văn thi sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, cái nôi văn minh cũ kỹ của dòng hậu duệ Âu-Lạc, Hùng Vương, qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, nay nhờ Bác và Đảng “vôi ve” kỹ lưỡng bằng giáo điều vô sản, nhưng cũng khá cẩu thả, thiếu mỹ thuật về mặt thực hành, nên chưa được trả giá bằng cái “nhà vệ sinh trên ban công” nội thành.  Phấn sáp tới mấy, “vôi ve” tới mấy, công trình cộng sản tu bổ thành trì, đất nước vẫn lòi cái đặc tính…bần-cán-vệ-sinh tuồng hề của họ.  Hay cụm từ “Hoà Giải Hoà Hợp Dân tộc” cũng đã được người cộng sản Việt Nam “vôi ve” tương tự, như đã từng vôi ve thành trì và tư tưởng cổ hủ của họ, theo đúng chỉ thị và tiêu-chuẩn phân-bón của Đại Lãnh tụ Mao-Thế-Tôn.
  • Vậy, căn cứ vào quá khứ và hiện tình đất nước, khách quan phải khẳng định rằng cho tới ngày nay, Nhà nước cộng sản Việt Nam không thực tâm và cũng không có khả năng “hoà giải hoà hợp dân tộc” khi hệ thống ”Công An Nhân dân Chỉ Biết Còn Đảng, Còn Mình”, và khi Đảng gốc vẫn hèn với giặc, ác với dân.
Không Thể Hoà Giải Hoà Hơp Suông Hay Ngớ Ngẩn
Cần nhấn mạnh: cả hai hình thức “cầu hoà” này không thể giao hàng “suông”, mời mọc đãi môi, một cách trống rỗng, kiểu rẻ tiền “quên đi, xoá bài làm lại”.   “Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc” không thể thực hiện một cách dễ dàng như một cảnh ảo thuật, hú hoạ bất chiến tự nhiên thành, khi hai bên đối tác [nếu không muốn nói là hai “kẻ-thù”] vẫn còn màu cờ sắc áo rõ rệt, vẫn còn hăng say chào đón nhau với những khẩu hiệu chống đối kịch liệt, không đội trời chung. Về mặt “giao lưu văn hoá”, người cộng sản có nhiều ngôn ngữ miệt thị trắng trợn, cục mịch, ghê gớm khi nhắc tới không gian “ngụy” [sic] này.
Nhưng 38 năm trước, cứ nghe mà đừng tưởng bở: ngay buổi lễ tiếp thu Sài Gòn, Tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản, đã phát biểu trước mặt Tổng Thống chớp nhoáng Dương Văn Minh: “Trong cuộc chiến đấu lâu dài này không có ai là kẻ thắng, ai là kẻ bại. Toàn quân và toàn dân Việt Nam là người chiến thắng…” Rồi Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên gặp bại tướng Nguyễn Hữu Có cũng đã cầm tay mà nói: “Chào mi, ta với mi lúc trước hai đứa hai chiến tuyến nhưng nay ta đã là hai anh em”. 
Hoan hô nhị vị “hiền tướng” cộng sản gộc, và chỉ vài ngày vài tháng sau, đã khởi đầu bầy toả một không gian và một thời gian “đổi đời” khốn khổ, khốn nạn nhất cho “toàn quân và toàn dân” miền Nam, trong dòng lịch sử hiện đại.  Hoá ra  “Anh Em”, “toàn quân và toàn dân Việt Nam” chỉ là những xảo ngôn, dối trá, “nói-dối-như-vẹm”.[7]
Kể cả những ý nghĩ tạm gọi là sáng giá của ông Võ Văn Kiệt, “…ngày 30 tháng 4có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn”, cũng chỉ có tính cách hiển nhiên nói lên một sự thật phũ phàng, kiểu “vérité de La Palice”,[8] hay sự-thật-bằng-thừa mà cả Dân Tộc Việt, những người-trong-cuộc, ai cũng biết suốt mấy chục năm qua, trước cả thời điểm tỉnh ngộ của vị cựu Thủ Tướng Cộng Sản này. 
Còn câu nói của cựu đại sứ Cộng Sản Việt Nam tại Pháp Võ Văn Sung: “Lúc này nếu ai đó trong chúng ta dù từng đứng từ phía nào mà vẫn nuôi lòng thù hận, cản trở hòa hợp dân tộc thì sẽ dần trở nên lạc lõng và thật sự có lỗi với tương lai của chính con cháu mình” … lại có tính cách kẻ cả dạy đời, nhưng chỉ có thể áp dụng cho bên thắng-thế-nhờ-hận-thù.  Thật vậy, chỉ kẻ chủ trương đấu tranh giai cấp, đấu tố địa chủ, đánh tư sản, hành hạ bỏ tù các nhà dân chủ đối kháng mới cần xếp dỡ hận thù, mới cần ăn năn sám hối.  Không biết hai ông Võ Văn Kiệt và Võ Văn Sung-Paris có ý đồ nghĩ rằng những người phải nghe lời tuyên truyền suông này toàn là thứ “ngớ ngẩn”, loại con-nai-vàng-ngơ-ngác-cách-mạng-mùa-thu, hay chính quý ông cũng ngẩn ngơ theo kiểu đó.
 
Vài Nhận định bổ túc về Lời lẽ “ngoại giao” của Ông Nguyễn Thanh SơnNgày 31 tháng 3 năm 2010, ông Nguyễn Thanh Sơn, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam [đặc trách Ủy Ban Nhà Nước về người Việt Nam ở nước ngoại], có gửi thư đến Washington, DC. đề nghị Dân Biểu Cao Quang Ánh dẫn tới gặp cộng đồng người Việt để hội thảo, nhằm xoá bỏ những “ngộ nhận và hiềm khích” …vì cộng đồng “còn thiếu thông tin đúng đắn về Việt Nam và vẫn còn mang tư tưởng hận thù cùng những lời nói, việc làm chống lại Nhà nước Việt Nam”.
Sau khi nhận được công-văn-ngoại-giao [không mấy sáng sủa, trình bày lem-nhem] dụ dỗ chính khách Hoa-Kỳ, Dân Biểu Cao Quang Ánh đã khước từ một cách khá rõ rệt[9] [dù trước đây, ông Dân Biểu Mỹ gốc Việt, khi về Nước, đã bị ông Thứ trưởng tân thời, sơ-mi sọc, cà-vạt đỏ, năng nổ ôm vai bá cổ, kiểu “ngoại-giao-không-mấy-ngoại-giao”].  Chúng tôi xin đóng góp thêm một số nhận định liên hệ tới những lời lẽ thô sơ của ông TTNG Nguyễn Thanh Sơn, như sau:
“Ngộ Nhận…” 
  • Hơn 3 triệu Người Việt tỵ nạn cộng sản, đã từng đợt bỏ nhà bỏ xứ, liều lĩnh ra nước ngoài để thoát cái hiểm hoạ cộng sản, hiển nhiên không hề “ngộ nhận” gì cả, vì họ đã đích thân nếm “mùi vị” cộng sản, vừa chua cay, vừa tàn khốc, đến độ nguy hại tới tính mạng, tới ý nghĩa căn bản của cuộc sống.  Họ không hề lầm lẫn, vì những kinh nghiệm khủng khiếp mà họ từng biết trong xã hội tù đày cộng sản vẫn theo đuổi họ bằng những hậu ứng, những vết thương sâu đậm.  Hơn 3 triệu người này đều là nạn nhân, hay con cháu nạn nhân của một hay nhiều ngược đãi, vi phạm, phương hại trầm trọng đã xẩy ra từ những năm 1925 tới bây giờ, hơn ba phần tư thế kỷ.
  • Hơn 3 triệu người này đều là tỵ nạn chính trị, hay nạn nhân kinh tế thường xuyên bị bóc lột, bỏ khổ, bỏ đói nơi quê hương bất lực, vô trách nhiệm, có lúc mang trạng thái của một “cha-ghẻ” ghê tởm, ác độc, ruồng bỏ con cái, phá vỡ gia thế, trắng trợn vô nhân đạo, bán đất, bán người.  Cái nạn cộng sản phải khủng khiếp như thế nào mới đẩy người dân, từ nam chí bắc, bỏ chạy thoát thân, dù họ biết trước, sẽ có cả trăm ngàn người thất bại, trôi sông trôi biển, bỏ xác giữa rừng, giữa núi. Ai ngộ nhận? chắc chắn không phải là những người Việt tỵ nạn cộng sản rồi.
“Thiếu thông tin đúng đắn về Việt Nam”  
  • Hơn 3 triệu người Việt tỵ nạn chính trị, kinh tế, nay ở những mảnh đất tự do, có đầy đủ thông tin, tài liệu, sách báo cởi mở, đúng đắn, không bị kiểm duyệt, không bị đe doạ, bịt mắt, bịt tai, nên họ có rất nhiều cơ hội tìm hiểu mạch lạc, rõ rệt, đầy đủ tin tức về mọi việc xẩy ra trên khắp thế giới, kể cả cái không gian bưng bít, hoả mù của Nhà nước cộng sản Việt Nam.  Người Việt Hải ngoại biết rõ từng tên cộng sản tham nhũng, cờ bạc, ăn bẩn, đúc cầu giả, giết người thật, bỏ tù thật, đổ phân thật, ngu xuẩn thật.  Họ biết rõ nhà cửa vôi ve tuồng hề của từng tên cán bộ to, nhỏ.  Họ biết rõ đời sống khốn đốn của dân chúng sinh tồn tạm bợ nơi vỉa hè, chốn ngoại ô, cuối làng xóm ngập lụt, ô uế, thiếu vệ sinh, nhiều mánh khoé gian lận, nhiều mafia xã hội đen, nhiều cán bộ công an đói khát, mỗi lúc khảo sát “đầu tiên” và “tiền đâu”.
  • Hơn 3 triệu người Việt hải ngoại biết rõ đội ngũ lãnh tụ cộng sản, từ Bắc Bộ Phủ tới cấp tham mưu địa phương đều nhúng tay vào việc bán ranh giới, cầm đất Tây nguyên, chia đảo, bán rừng, bán người lao động viễn biên, bán dâu hầu xứ người, đến nỗi nhà lập pháp Hoa Kỳ[10] đã phải gọi các lãnh tụ cộng sản Việt Nam là “pimps”, là “ma-cô” thứ-thiệt.
  • Về mặt văn hoá, lịch sử dân tộc, người Việt hải ngoại có căn bản điều nghiên, truyền bá khai tâm, duy trì và chuyển tiếp căn bản truyền thống dân tộc Việt một cách trân trọng, đúng đắn.  Người làm văn học, viết sử hải ngoại có khả năng và trách nhiệm  so sánh dữ kiện toàn bộ khi họ tự do đối chiếu với những nguồn gốc tài liệu chân chính trên khắp thế giới.  Chỉ riêng trí-thức-cán-bộ cộng sản mới phải viết lại lịch sử, ngụy tạo tài liệu văn hoá để chữa chạy, bênh vực tư tưởng mác-xít mà họ và thầy trò họ ngoan cố be bờ: có “đảng, có ta”.[11]
  • Nếu sám hối kịp và còn chút thiện chí cuối chiều, đội ngũ cộng sản nên ở nhà-ta đối thoại ngay với người dân trong nước, để bạch hoá hiện tình nguy ngập của đảng và của dân, bị vạ lây.  Chính 80 triệu người dân trong nước mới cần tìm hiểu nhiều hơn, vì họ vẫn còn bị chế độ cộng sản bịt mồm, che mắt, bít tai, khoá họng.  Chính người dân trong nước mới cần hiểu biết thêm, một cách rõ ràng, sáng tỏ, tử tế, trung thực [nếu có phép lạ].  Chứ tới nay, cả ngàn cơ sở báo chí, truyền hình truyền thông trong nước, chẳng qua cũng chỉ là những cái máy sao y bản chính của cơ sở tuyên huấn giáo điều cộng sản, chẳng ích bổ hơn gì, sau bao nhiêu năm toa rập.  Dân trong nước vẫn mù mịt, khờ khạo, ngơ ngác.  Kể cả những cán bộ cộng sản tép, còn lơ lửng vòng ngoài. 
Hiềm Khích… Tư Tưởng Hận Thù Cùng Những Lời Nói, Việc Làm Chống Lại Nhà Nước Việt Nam”
  • Người Việt hải ngoại sống đời sống tự do, đầy đủ an sinh, trí tuệ.  Gia đình yên ấm, con cái tử tế, thành đạt.  Họ còn gìn giữ được truyền thống nhân bản, lễ độ gia giáo.  Họ học hỏi thêm cách đối xử công bằng, lịch thiệp, ôn hoà, căn cứ vào quyền hạn và trách nhiệm công dân cởi mở, trọng pháp, trọng sinh. Người Việt Hải ngoại có kiến thức, có đức độ căn bản vì sống gần gũi với hoàn cảnh xã hội bình đẳng, thân thiện, đầy đủ cơ hội và phương tiện cải tiến, thực thi tốt lành.
  • Vậy người Việt hải ngoại không sống trong cảnh huống “hiềm khích, hận thù” như trong những xã hội mánh mung, cướp giật lẽ sống khi còn bị cộng sản kiểm toả, giam hãm trong nghiệt ngã thiệt thòi, trong bí ẩn, gian lận, phũ phàng.
  • Tuy bị Nhà nước cộng sản ruồng bỏ, hắt hủi đến độ phải ly khai, bỏ xứ, bỏ nước, thế mà đã biết bao nhiêu người Việt hải ngoại đã phải đi làm cực nhọc “ca” ngày, “ca” đêm để thêm tiền gửi về gia đình, anh em, họ hàng còn kẹt lại trong nước.  Hằng năm, người Việt hải ngoại chuyển tiền tặng từ 7 tới 10 tỷ Mỹ kim về Việt Nam. Họ hy sinh như vậy, vì họ có tấm lòng, có đức độ.  Họ không bắt buộc phải đóng góp như vậy, họ tự nguyện.  Họ không bắt buộc phải yêu nước, yêu gia tộc, yêu xứ sở.  Nhưng họ vẫn có những thiện chí đó vì họ vẫn là những con người tử tế, không thù hằn, không vị kỷ.  Họ có tự do, có khả năng làm những công việc thiện nguyện đó.  Họ cũng có tự do và khả năng chấm dứt, nếu họ thấy việc đóng góp này mất ý nghĩa căn bản, nếu họ biết chính quyền cộng sản đang lợi dụng.            
  •  Và nếu đa số người Việt hải ngoại còn “hận thù, chống lại Nhà nước Việt Nam” là vì “Nhà nước” đó không xứng đáng với sự tin cậy, cảm tình của họ.  Ngày nào Nhà nước Việt Nam còn cướp bóc, bỏ tù dân, còn bạc đãi tôn giáo, còn man khai lịch sử văn hoá, còn độc tôn, độc tác, còn sai quấy bán nước, bán dân thì bắt buộc người Việt hải ngoại có bổn phận phải cảnh cáo, chống đối.  Căn cứ vào lẽ phải và luật pháp công bình.  Căn cứ vào tình dân tộc.  Căn cứ vào tình người.
  •  Ngày nào Nhà nước đó chưa bác bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam;[12]  ngày nào Nhà Nước đó chưa biết tới sức mạnh đa nguyên đa đảng trong hệ thống kinh bang tế thế, trị quốc bình thiên hạ, nhằm bảo trọng sinh tồn dân tộc; ngày nào Nhà nước đó chưa thật tâm cứu nước, hưng dân, chưa thực sự cải tiến toàn diện, ứng dụng luật pháp công bình; ngày nào Nhà nước đó vẫn còn ý đồ vôi ve đỏ cả mảnh đất di sản Việt Nam, và  hăm he định nhuộm đồ nốt 3 triệu dân cư hải ngoại; và nhất là ngày nào Nhà nước đó vẫn còn là một ngụy thể cộng sản toàn trị, không đội trời chung với bất cứ ai, thì ngày đó, người Việt hải ngoại vẫn còn thấy “đối thoại” là vô ích và “hoà giải hoà hợp dân tộc” là âm mưu xảo trá, bất kham.      
Ngày nào một chính thể chân chính, phân minh, thực tâm
  • điều tra những vi phạm nhân quyền; 
  • xét xử công minh những vụ tham nhũng, lạm quyền, trọng tội bán nước;
  • trả lại tự do, tài sản và danh dự cho dân oan và các nạn nhân lịch sử;
  • hoàn trả an sinh công bằng, thuần công lý cho toàn dân, toàn quân;
  • phục hồi nhân quyền và dân chủ tự quyết trên toàn cõi đất nước Việt Nam.  
ngày đó 90 triệu người dân trong nước và 3 triệu người dân tại hải ngoại mới bớt hận, mới hoan hỷ chấp nhận và ủy thác thực hiện một giải pháp Hoà-Giải-Hoà-Hợp-Dân-Tộc chân thực, không lật lọng, không áp đảo hoang đường.       

Toàn dân Việt Nam vẫn mong, vẫn đợi cuộc “chỉnh lý” hài-hoà-dân-tộc đó, nhưng nhất quyết không muốn bị lừa một lần nữa bởi các thủ đoạn chia chác hậu trường chính trị hay trò bịp bợm xảo trá của những tên giang hồ CS ba lá, vớt vét chợ chiều tới giờ thứ 25. 
  
TS LS Lưu Nguyễn Đạt
[1] Promotion of National Unity and Reconciliation Act, No. 34 of 1995.          
[2] Restorative justice.  Also:  Facing The Truth With Bill Moyers, produced by Public Affairs Television, Inc., presented on PBS by Thirteen/WNET in New York.
[3] Thực ra Chủ tịch Mao Trạch Đông ở bên Tàu mới là người đầu tiện gọi trí thức là “cục cứt”.  Hồ Chí Minh và đồng bọn lây tục ngữ theo.
[4] “Là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền”, Dương Thu Hương Trả lời Đinh Ngọc Ninh (Phần 2)
[5] Trước những năm 1954 trở lại, người làng « Kẻ Noi » chuyên nghề « đổ thùng phân » đặt dưới các nhà vệ sinh ngồi chồm chỗm tr ên lỗ,  rất thông thường tại Hà Nội ngày xưa.  Hình như bây giờ tại Việt Nam, dân chúng « văn minh hơn » thường xây lâu đài 4 hay 5 tầng, nhưng không hề có phòng vê sinh, vì còn công khai cung cấp vào việc «kinh doanh» cung cấp «bom phân» kiểu Hà-Lội [sic].  Phần thặng dư, đem bỏ sông nuôi cá tập thể.  Những chi tiết này đều có thật, căn cứ vào hình ảnh Youtube v à tài liệu nhà Nước-Vô-sản.
[6] Xem bài «Tại sao phố cổ Hà Nội bị từ chối công nhận là di sản văn hóa thế giới? » đăng tại www.vietthuc.org.
[7] Nói ngon, nói ngọt, và nói dối như « cuội vẹm » [Việt-Minh]
[8] On cite souvent à titre d’exemple les paroles suivantes : “il mourut le vendredi / le dernier jour de son âge / s’il fût mort le samedi / il eut vécu davantage”. Depuis, on parle de vérité de La Palice lorsqu’une chose est tellement évidente qu’elle en est risible. 
Jacques II de Chabannes dit Jacques de La Palice (ou de La Palisse), né en 1470 à Lapalisse dans le Bourbonnais et mort le24 février 1525 à Pavie en Italie, était un noble et militaire français, seigneur de La Palice, de Pacy, de Chauverothe, de Bort-le-Comte et de Héron, ainsi que maréchal de France. Il servit sous trois rois de France (Charles VIII, Louis XII et François Ier) et participa à toutes lesguerres d’Italie de son temps.
[9] «I received your letter requesting me to host a meeting with your delegation to clear up « misunderstandings » between the Vietnamese american community and the government of Vietnam.  At this point, I must decline…” Anh Joseph Cao, Congress of the United States, House of Representatives, Washington, DC, 4/29/2010
[10] Đọc “Loretta Sanchez Says Vietnam’s Rulers Are Pimps” đăng tạiwww.vietthuc.org
[11] Hình ảnh pa no 3-2-2010, với câu:  ”Công an Nhân dân chỉ biết còn Đảng, còn Minh”
[12] Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992:
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét