19 tháng 1, 2013


Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Phần I
08:01, Thứ Hai, 3/12/2012
Là một tiến sĩ sử học, TS. Nguyễn Nhã đã âm thầm tìm kiếm tư liệu văn bản, hình ảnh, hiện vật để nghiên cứu về lịch sử Hoàng Sa, Trường Sa. Nhà khoa học năm nay hơn 70 tuổi ấy đã dành gần trọn cuộc đời mình để khẳng định chủ quyền biển đảo của đất nước bằng những chứng cứ khoa học. Vietnam.vn trân trọng giới thiệu Luận án tiên sĩ "Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" của ông.
Luận án "Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" của tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã được đánh giá là một trong những công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, công phu, tập hợp khá đầy đủ văn bản pháp lý thể hiện chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Với những kinh nghiệm tập hợp trên qui mô lớn những tư liệu trong và ngoài nước hồi biên tập Tập San Sử Địa số 29, đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, người nghiên cứu đã nỗ lực, có những khám phá mới về mặt tư liệu chưa có ai đề cập tới như tài liệu của chính người Trung Quốc, Thích Đại Sán trong Hải Ngoại Kỷ Sự đã cho biết Chúa Nguyễn sai thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hoặc phát hiện thêm đoạn văn thứ 2 rất dài viết về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa ở thời Vua Minh Mạng trong cuốn sách rất quan trọng có tính cách luật lệ của triều Nguyễn. Đó là Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, cùng tài liệu vẽ sơ đồ các thuyền buồm đóng theo truyền thống ở Cù Lao Ré được sử dụng đi biển, trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa còn lưu giữ trong dân gian tại thôn Đông, xã An( Lý) Hải, Huyện Đảo Lý Sơn tức Cù Lao Ré khi xưa, do ông Nguyễn Hạp vẽ.


Thuyền buồm của đội Hoàng Sa vào thế kỷ 17-18. Ảnh: Kỷ yếu Hoàng Sa
Luận án cũng đã trình bày việc Việt Nam quản hạt từ đầu thế kỷ XVII quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Quảng Ngãi khi là phủ, trấn, tỉnh trong thời kỳ chưa bị các nước ngoài xâm phạm. Sau đó thuộc quản hạt của tỉnh Thừa Thiên rồi hiện thuộc Đà Nẵng  đối với Hoàng Sa và Bà Rịa Vũng Tàu, rồi Phú Khánh , Khánh Hoà đối với Trường Sa.  Cũng trong thời kỳ chưa có sự xâm phạm của nước ngoài, vua, triều đình Việt Nam (thời Minh Mạng) đã tuyên bố khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc cương vực hiểm  yếu của Việt  Nam. Luận án cũng đi sâu, trình bày một cách hệ thống những hoạt động mang tính nhà nước, xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của đội Hoàng Sa (địa bàn ra đời, thời gian hoạt động, nhiệm vụ, tổ chức và nội dung hoạt động khoảng 17 trang), cũng như đội Bắc Hải hoạt động dưới sự kiêm quản của đội Hoàng Sa trong khu vực phía Nam của Biển Đông tức quần đảo Trường Sa và vùng phụ cận (Côn Đảo, Hà Tiên). Luận án cũng đi sâu vào các hoạt động mang tính nhà nước rất cao là thủy quân suốt thời Nhà Nguyễn  bắt đầu năm 1816, trở thành lệ hàng năm thời Minh Mạng thứ 17 (1836), với những hoạt động cắm cột mốc, bia chủ quyền xây dựng chùa miếu, trồng cây tại Hoàng Sa và Trường Sa. 

Từ năm 1909, Hoàng Sa bắt đầu bị Trung Quốc và sau đó bị các nước khác xâm phạm chủ quyền, luận án trình bày các chính quyền ở Việt Nam có nhiệm vụ quản lý Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của mình và luôn luôn củng cố, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tác giả còn phân tích về giá trị pháp lý của sự xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa. Tác giả đưa ra luận điểm, luận cứ và luận chứng về sự  chiếm hữu thật sự, hoà bình   và thực thi chủ quyền một cách liên tục, tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả phản bác lại những luận điểm sai trái biện minh cho sự xâm phạm của nước ngoài như của Trung Quốc về sự phát hiện sớm nhất, kinh doanh sớm nhất, quản hạt sớm nhất hoặc luận điểm vô chủ và địa lý kế cận của các nước khác ở Đông Nam Á. Tác giả cũng gián tiếp phản bác lại những phản bác của Trung Quốc về tư  liệu Việt Nam hay các luận điểm của chính quyền Việt Nam.

1. Lý do và mục đích nghiên cứu

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam từ nhiều thế kỷ nay. Quần đảo này có tầm quan trọng đặc biệt về mặt chiến lược  (nằm trên thủy đạo và đường bay quốc tế) cũng như có tiềm năng quan trọng về kinh tế (dầu khí, các sản vật khác) và hiện đang bị xâm phạm bởi nhiều nước như Trung Quốc (bao gồm Đài Loan), Philippines, MaLaysia, Brunei khiến trở thành điểm nóng chính trị của khu vực.

Nghiên cứu đề tài này không những là do nhu cầu của giới nghiên cứu khoa học mà còn đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đối với quốc dân cũng như các nhà lãnh đạo, nhất là cho cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngoài ra, bản thân người nghiên cứu vốn quan tâm đến vấn đề này từ hơn 25 năm nay, muốn có cơ hội để hệ thống hoá, tổng hợp tất cả các tài liệu và tìm hiểu đầy đủ, thấu đáo việc xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Công trình nghiên cứu nhằm mục đích :

1. Cung cấp tư liệu một cách tổng hợp, hệ thống và cặn kẽ về quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ đó rút ra những luận điểm vững chắc minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

2 Cũng từ đó,  giúp cho việc phản bác những luận điểm biện minh cho sự xâm phạm của các nước ngoài đối với chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hầu thấy được thực chất của tình trạng xâm phạm  chủ quyền để xây dựng các đối sách lâu dài bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3. Góp phần xây dựng nhận thức rõ ràng về trách nhiệm tranh đấu giành lại chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Trường Sa của nhà nước và nhân dân Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trước năm 1975

Trước năm 1909,  chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bị Trung Quốc và các nước khác xâm phạm. Năm1907 là năm xảy ra việc người Nhật chiếm đảo Pratas. Trung Quốc đã phản đối sự chiếm đảo Pratas này của người Nhật cho rằng đảo vô chủ. Để ngăn chặn sự bành trướng của Nhật xuống phía Nam và tránh xảy ra sự kiện "Pratas thứ 2", Trung Quốc đã đặt tên một loạt các đảo ở Biển Nam Hải trong đó có Tây Sa và Nam Sa mà Trung Quốc cho là đảo vô chủ. Lúc này, Nam Sa chưa xuống dưới vị trí của Trường Sa của Việt Nam mà chỉ ở vị trí Trung Sa. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh đã thấy xuất hiện những thư tịch cổ Việt Nam đề cập chung chung đến Hoàng Sa. Xưa nhất, ít ra vào cuối thế kỷ XVII như tập bản đồ “Toản Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư”hay Toản Tập An Nam Lộ của Đỗ Bá Công Đạo có vẽ và ghi chú về “bãi Cát Vàng” tức Hoàng Sa, tiếp đó là Phủû Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, mô tả chi tiết về các hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải minh chứng sự xác lập và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sang đến thời nhà Nguyễn, từ triều Gia Long, cả một hệ thống biên niên sử và địa dư chí của Quốc Sử Quán, sách hội điển, châu bản của Nội Các triều đình nhà Nguyễn đã ghi chép những hoạt động của đội Hoàng Sa một cách rất kỹ và rõ ràng thể hiện sự xác lập và bảo vệ chủ quyền của nhà nước Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa. Trong đó có bộ chính sử Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Chính Biên cũng như  Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu và bộ địa chí như Đại Nam Nhất Thống Chí, Hoàng Việt Địa Dư Chí. Đặc biệt Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Minh Mạng), Châu Bản Triều Nguyễn (triều Minh Mạng & Thiệu Trị) đã đề cập đến việc dựng bia chủ quyền đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bằng chứng hùng hồn Hoàng Sa được vua và triều đình Việt Nam quan tâm và bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa ở bậc quyền lực tối cao (điều này khác hẳn với Trung Quốc cũng như các nước khác không hề có chứng tích xác lập và bảo vệ chủ quyền trong suốt các triều đại phong kiến).

Ngoài nhà nước Việt Nam, các nhà nghiên cứu nước ta cũng đã quan tâm, ghi chép các hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải như  Lê Quí Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục, Phan Huy Chú trong Dư Địa Chí (Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí), Nguyễn Thông trong sách Việt Sử Cương Giám Khảo Lược (quyển 4, năm 1877)...

Cũng trong thời gian chưa có sự xâm phạm chủ quyền ở Hoàng Sa, nhiều tác giả trong đó có cả người Trung Quốc và các nhà nghiên cứu Phương Tây cũng đã đề cập đến Hoàng Sa hoặc đến việc xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa của các nhà cầm quyền Việt Nam như Giám Mục Taberd, Gutzlaff, quan trọng là những người Pháp từng hoạt động giúp Nguyễn Ánh tức Vua Gia Long như  Dayot, Chaigneau đã xác định Vua Gia Long đã tái xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa.


Bản vẽ kỹ thuật thuyền buồm và một số vật dụng dùng để đi Hoàng Sa - Ảnh: Kỷ yếu Hoàng Sa (Theo tài liệu sưu tầm của Luận án tiến sĩ sử học của Nguyễn Nhã)

Ngoài công việc vẽ bản đồ hàng hải trong đó tại Biển Đông có dải đảo Hoàng Sa (Paracels) chạy dài suốt dọc ngoài khơi biển Champa hay Cochinchine, những bút ký, thư từ của người Tây Phương (Bồ, Hoà Lan, Pháp, Anh) về hải trình, các vụ đắm tàu đều được ngư dân và quân lính Đàng Trong đem về đất liền giải quyết.

Sau năm 1909, tổng đốc Quảng Đông bắt đầu có ý định xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, cho rằng Hoàng Sa chưa thuộc về nước nào. Lúc này, Việt Nam đang còn bị ách đô hộ của đế quốc Pháp, bắt đầu mới có nhiều người thực sự quan tâm nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, song mới chỉ là những bài báo.Rộ lên nhất là cuối thập niên 20 đầu thập niên 30. Tiêu biểu là Lapicque viết trong Revue Indochinoise số 38, 1929 sưu tầm  một số tài liệu xác định chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa và trưng bằng cớ chính quyền địa phương Trung Hoa nhân vụ những người Trung Quốc cướp trên tàu bị đắm  Bellona năm 1894 và tàu Unofi Maru năm 1896  đã từ chối chủ quyền, không trách nhiệm về việc cướp nói trên ở quần đảo Hoàng Sa vì cho rằng “Paracel” không thuộc chủ quyền Trung Quốc. Sau đó hàng loạt những bài báo của Henri Cuchrousset đăng trên báo Eveil Economique de l’Indochine từ năm 1929 đến 1931 đưa ra những bằng chứng chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, trách cứ chính quyền Pháp đã quá lơ là  trong việc xác nhận và bảo vệ chủ quyền ở đảo Hoàng Sa, đến nỗi đã bị dự thẩm Barbet ra lệnh khám xét ban đêm để buộc nhà báo phải nộp cho toà các hồ sơ liên quan đến Hoàng Sa. Chính vì vậy đã có tác động, chính quyền Pháp, vào những năm sau đó đã tái xác nhận chủ quyền ở Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa (Spratly) với những hành động cụ thể như khảo sát, cắm cọc mốc, dựng bia, thiết lập hải đăng, đài khí tượng và trại lính (vào những năm đầu thập niên 30). Trong những năm này có nhiều công trình nghiên cứu địa lý Hoàng Sa.

Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai và chiến tranh kháng chiến chống Pháp, ít ai quan tâm nghiên cứu đến Hoàng Sa.

Sau năm 1954, theo hiệp định Genève, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Việt Nam,  Philippines lên tiếng đòi chủ quyền của mình ở quần đảo Trường Sa. Năm 1956, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc chiếm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và sau đó Đài Loan chiếm đảo Itu Aba, vấn đề tranh chấp chủ quyền được đặt ra gay gắt, từ đó nhiều bài nghiên cứu đã được đăng báo. Nổi bật hơn cả là hai công trình nghiên cứu về chủ quyền của Hoàng Sa tương đối có hệ thống và dầy công sưu tầm. Đó là công trình ra đời vào năm 1971, L’affaire des ýles Paracels et Spratly devant le droit International, 298 trang đánh máy, luận án tiến sĩ đệ tam cấp của ông Lê Thành Khê, tại Institut International d’Etudes et de Recherches Diplomatiques. Công trình này đi sâu về mặt công pháp quốc tế, chủ yếu theo luật pháp quốc tế của thế giới tư bản chủ nghĩa và những án lệ của toà án quốc tế La Haye. Tác giả trên chưa có điều kiện đi sâu vào những chứng liệu về lịch sử.

Tiếp đó, năm 1972 xuất hiện công trình luận văn tốt nghiệp Ban Đốc Sự của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (Sài Gòn) của Đinh Văn Cư với đề tài : “Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, dày 137 trang đánh máy. Công trình trên dành hơn 1/4 nội dung nói về hoàn cảnh địa lý và trình bày diễn tiến sự tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia tại Hoàng Sa.

Tới năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, nhiều công trình đã được thực hiện trong năm này, trong đó có tập tư liệu bằng tiếng Pháp của Võ Long Tê với nhan đề “ Les Archipels de Hoang Sa et de Truong Sa selon  les Anciens Ouvrages Vietnamiens d’Histoire et de Geographie”, in năm 1974 dày 201 trang. Đây là bản dịch tiếng Pháp các đoạn trích những thư tịch cổ Việt Nam về Hoàng Sa. Tiếp đó “Hoàng Sa, lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà”, dày 96 trang của Bộ Dân Vận Chiêu Hồi (chính quyền Sài Gòn) và sách Trắng của Bộ Ngoại Giao chính quyền Sài Gòn vào năm 1975. Cũng vào năm 1975 đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu vấn đề chủ quyền của Hoàng Sa là Tập San Sử  Địa số 29 (1975), đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, 352 trang gồm nhiều tư liệu, hình ảnh, bản đồ ,đã được đánh giá cao.

Sau năm 1975


Một số cơ quan như Ban Biên Giới Chính Phủ, Viện Nghiên Cứu về Trung Quốc, các trường đại học bắt đầu quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa, đặc biệt sau cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc tháng 2 năm 1979. Tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố tài liệu “chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. Tháng 1 năm 1982, Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam  lại công bố cuốn sách trắng “quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”. Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại Giao nước Cộng hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam  lại công bố tài liệu: “ Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế”.  Mẫn Khánh Dương Kỵ và Trần Xuân Cầu viết bài “Từ Bãi Cát Vàng đến Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam” trong Sử Học số 2 (nhà xuất bản Đại HoÏc và Trung Học Chuyên Nghiệp) đã đưa ra một vài thông tin mới, cách tiếp cận mới qua thực địa tại cù lao Ré.

Cuốn “Hoàng Sa, quần đảo Việt Nam”  90 trang của Văn Trọng là đúc kết cô đọng và chú trọng về phần tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc thêm một số hình ảnh, như bia chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa chụp năm 1938, trên quần đảo Trường Sa chụp năm 1961.

Gần đây có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia về Hoàng Sa, Trường Sa đang được tiến hành. Trong đó có đề tài như "Hợp Đồng Nghiên Cứu Khoa Học Về Lịch Sử Chủ Quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", mã số BĐHĐ 01 - 01 do PTS Nguyễn Quang Ngọc (ĐHTH Hà Nội) chủ trì đã báo cáo tổng kết ngày 30/4/1995 và Hội Thảo Quốc Gia “Luận cứ Khoa Học Lịch Sử, Địa Lý và Pháp Lý chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” tại Hà Nội ngày 18/1/1996 cùng một số kết quả được tiếp tục công bố trong những năm sau đó.

Riêng bản Hợp Đồng Nghiên Cứu Khoa Học trên, bước đầu đã có những đóng góp đáng kể về bản đồ cổ Việt Nam do Trần Bá Chí phụ trách tìm ra được 22 sách cổ có bản đồ vẽ Hoàng Sa và Trường Sa. Về thư tịch cổ Việt Nam do Phạm  Kim Hùng, Nguyễn Đăng Na, Nguyễn  Hữu Thành phụ trách, ngoài kiểm tra, đối chiếu với nguyên bản 25 cuốn sách chữ Hán đã được dịch, còn phát hiện thêm một số thông tin mới ở Đại Nam Thực Lục và còn tìm thêm 15 cuốn sách như Địa Dư Toát Yếu, Nam Việt Địa Dư Chí, Cao Chu Thần Di Cảo, Chu Nguyên Tập Vựng Khảo, Mân Hành Thi Thảo, Việt Hành Ngân Thảo, Đông Hành Thi Thuyết, Quảng Thuận Đạo Sử Tập, Trung Kỳ Dư Địa Lược Sao, Hải Trình Chí Lược … Tuy các sách trên không trực tiếp đề cập đến vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa , song các sách đó đã đề cập đến Hoàng Sa , cũng đã phản ảnh sự hiểu biết và quan tâm của người Việt xưa đối với Hoàng Sa. Về tư liệu Châu Bản do Võ Văn Sạch, Vũ Văn Quân phụ trách đã phát hiện được một số tư liệu rất qúi về bằng chứng rõ ràng quá trình thực thi chủ quyền ở  Hoàng Sa và Trường Sa trong hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị. Về tư liệu Phương Tây do PTS Nguyễn Thừa Hỷ phụ trách đã có những phát hiện đáng kể trong đó có vụ Dayot giúp xây dựng hải quân và vẽ lại bản đồ Hoàng Sa cho Nguyễn Aùnh hay một thương  nhân Bồ Đào Nha dâng bản đồ Hoàng Sa cho Nguyễn Ánh. Ngoài ra cuộc khảo sát thực địa ở Cù Lao Ré do PTS Nguyễn Quang Ngọc, PTS Vũ Văn Quân thực hiện đã phát hiện các nguồn tư liệu ở dòng họ, làng xã có liên quan đến hoạt động của các đội Hoàng Sa qua các thời kỳ Chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn dưới triều Nguyễn.


Một chiến thuyền nhỏ của thủy quân nhà Nguyễn - Ảnh tư liệu


Trong Hội Thảo Quốc gia 18/1/1996 trên, gồm 15 bản báo cáo đóng góp đáng kể về việc nghiên cứu lịch sử tranh chấp Hoàng Sa với Trung Quốc cũng như tư liệu về phía Trung Quốc, từ tìm hiểu hệ thống bản đồ của Trung Quốc của Nguyễn Quang Ngọc để chứng minh cho đến 1909 bản đồ Trung Quốc chưa bao giờ vẽ đến Hoàng Sa đến quan điểm của Trung Quốc về Hoàng Sa - Trường Sa của Hoàng Ngọc Bảo, quan điểm của Đài Loan về Hoàng Sa - Trường Sa của Nguyễn Huy Quy  hay tìm hiểu về bộ sưu tập tư liệu Hoàng Sa của Hàn Chấn Hoa (Trung Quốc) chủ biên do Phạm Kim Hùng phụ trách. Ngoài ra vấn đề pháp luật quốc tế về thủ đắc lãnh thổ của Nguyễn Đăng Dũng hoặc án lệ đảo Clipperton của Đinh Ngọc Linh hoặc xây dựng hệ quản trị tư liệu Hoàng Sa - Trường Sa bằng máy tính của Nguyễn Quốc Toản.

Một số công trình khác cũng được công bố như vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa trong quan hệ Việt Trung trong cuốn "Sự Thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt Trung" do nhà xuất bản Đà Nẵng in năm 1996 hay có tác giả tổng hợp lại những tài liệu đã công bố in thành sách như ông Nguyễn Q. Thắng. Một số luận án phó tiến sĩ, tiến sĩ có liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa hay Biển Đông như luận án của PTS Trần Công Trục ở Việt Nam, của TS Nguyễn Hồng Thao ở Pháp (1996), của PTS Đỗ Hòa Bình ở Liên Xô cũng đã được bảo vệ, song chủ yếu về vấn đề pháp lý của Hoàng Sa và Trường Sa hay Biển Đông.

Ngoài ra còn có một số bài báo của nhiều tác giả đăng trên báo Nhân Dân, Tạp Chí Lịch Sử Quân Sự, Tạp Chí Hán Nôm, Tạp Chí Xưa và Nay…

Như thế, các nhà nghiên cứu Việt Nam thật sự đã quan tâm và càng ngày càng đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Hoàng Sa và Trường Sa.

Các nhà nghiên cứu Phương Tây cũng ngày càng quan tâm hơn về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Pierre Bernard LaFont  viết phần “Les Archipels Paracels et Spratley   trong cuốn Confit de frontières en mer de Chine Méridionale, xuất bản năm 1989. Đặc biệt cuốn “La souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratley” của bà M.C. Gendreau, chủ tịch Hội Luật Gia Châu Aâu là một công trình khoa học có quan điểm khách quan cho rằng Việt Nam là nước có đủ danh nghĩa thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên mạng internet tháng 12-1999 cũng có hơn 900 tài liệu nói đến Paracels và Spratley (hiện nay có 970 tài liệu).

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giới hạn đề tài

Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả đi sâu nghiên cứu những tư liệu minh chứng và những hoạt động  cùng những lời khẳng định của nhà nước Việt Nam về việc xác lập, chiếm hữu, bảo vệ chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong quá trình lịch sử khi chưa có sự xâm phạm của nước ngoài và trong thời kỳ bị xâm phạm chủ quyền. Qua đó trình bày những luận điểm, luận cứ, luận chứng về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa .

Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là quá trình xác lập chủ quyền Việt Nam về mặt lịch sử  trong thời kỳ chưa có xâm phạm của các nước ngoài  và khi đề cập đến sự xâm phạm của các nước ngoài trong bối cảnh sự xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc là chủ yếu và đưa ra những luận điểm phản bác đối với những biện minh xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc vì chỉ có nước này mới thực sự quan tâm đến các luận điểm về lịch sử. Từ đó đưa ra những đối sách lâu dài về việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

4. Phương pháp nghiên cứu và các nguồn tài liệu sử dụng

Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp nghiên cứu lịch sử theo quan điểm duy vật lịch sử. Người nghiên cứu vận dụng phương pháp luận lịch sử và phương pháp nghiên cứu lịch sử cụ thể cùng phương pháp lôgích.

Công tác sưu tầm sử liệu được đặt lên hàng đầu, làm thế nào sưu tầm đầy đủ, phát hiện những tư liệu mới, tiếp cận đến các tài liệu gốc, tài liệu bậc một. Tác giả trước hết dựa vào các sách về thư tịch, những tài liệu tham khảo của các công trình nghiên cứu đã có trước, các tổng mục sách báo, sách dẫn. Tác giả còn đọc trực tiếp từng trang những tài liệu có khả năng đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa.


Mộc bản chiến thuyền Hoàng Sa. Ảnh tư liệu.

Về các nguồn tài liệu được sử dụng, luận án quan tâm đến các nguồn tư liệu gốc, sử liệu bậc một, từ nguồn sử liệu chữ Hán của Việt Nam cũng như của Trung Quốc. Luận án phối kiểm các bản dịch khác nhau, kiểm tra các nguyên bản, xử lý thích đáng đối với các dị bản (phần lớn đã được kèm theo ở phần phụ lục). Tài liệu bằng chữ Hán của Việt Nam rất phong phú, trong đó có phần đã được tác giả sưu tầm và có nhiều chuyên viên chữ Hán phiên âm và dịch thuật vào năm 1975, khi tác giả chủ biên Tập San Sử Địa số 29 đặc khảo về Hoàng Sa, cũng như khi viết bài  « Những sử liệu chữ Hán minh chứng chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua nhiều thế kỷ » dưới bút hiệu Hãn Nguyên. Sau năm 1975, được bổ sung từ nguồn tư liệu châu bản rất có giá trị trong thời Minh Mạng và Thiệu Trị của Viện Hán Nôm Hà Nội, cũng như nguồn tư liệu chữ Hán do công sưu tầm  của chuyên gia hán học đặc biệt về tài liệu của Trung Quốc như Phạm Kim Hùng hoặc của nhà sử học Tôn Thất Dương Kỵ Nguyễn Quang Ngọc và Vũ Văn Quân đi nghiên cứu điền dã tại Sa Kỳ – Cù Lao Ré (huyện đảo Lý Sơn) hoặc các tài liệu của Ban Biên Giới Chính Phủ, Bộ Ngoại Giao.

Các nguồn tư liệu phương Tây đã được phổ biến trên sách báo cũng được tác giả sưu tầm, phối kiểm từ nguyên bản, chứ không chỉ qua các bài dịch hay đã được ghi chép lại trong các công trình nghiên cứu trung gian (có kèm ví dụ bản « photocopy » nguyên bản tư liệu ở phần phụ lục).

Công tác khảo chứng,  xử lý, đánh giá tư liệu cũng được đặc biệt quan tâm.

Người nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp liên ngành như nghiên cứu địa lý, khảo cổ học, dân tộc học và luật học. Cuối cùng là tổng hợp lịch sử./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét