Khóc Cười Theo Mệnh Nước Nổi Trôi, Nước Ơi: Vô Hình Chung hay Vô Hình Trung?
Chân Phương
January 15, 2013One Bình Luận
January 15, 2013One Bình Luận
Vô Hình Chung hay Vô Hình Trung?Đổi Viên Ngọc Quý Để Lấy Hạt Sỏi Thô!
Lang thang trên mạng toàn cầu hơn một năm trước đây, chúng tôi đọc được đoạn văn do bí danh anhcasg (Anh Cả Saigon?) viết như sau:
[Vô hình trung: Đây là một từ mới, không biết được đưa vào sử dụng từ bao giờ, nhưng những tự điển chữ Hán, chữ Việt xuất bản trước chiến tranh, không ghi.
Về chính tả, còn có người viết "vô hình chung". Về nghĩa, mỗi người hiểu một cách. Tựu trung, có hai cách hiểu chính: 1-Theo nghĩa "không cố ý"; 2-Theo nghĩa của từ cũ "chung qui".
Tôi thử tra tự điển, thì thấy:
-Tự điển Hán-Anh Mathews (1966) không ghi "vô hình trung", nhưng có ghi "vô ý trung", và định nghĩa là "thoughtlessly, inadvertently" (không dụng tâm);
-Tự điển Hán-Anh Viễn-Đông (1993) có ghi "vô hình trung", và định nghĩa cũng gần giống cuốn vừa dẫn;
-Từ điển Việt-Hán của Hà-Nội (1990) chú nghĩa "vô hình trung" là "vô ý trung";
-Tự điển Tiếng Việt Hoàng Phê (1988) định nghĩa "vô hình trung": Tuy không có chủ định, không cố ý, nhưng tự nhiên là. Và cho thí dụ: -Anh không nói gì, vô hình trung đã làm hại nó.
-Tự điển Lê Văn Đức (1970) có ghi "vô hình trung", nhưng giảng rất lúng túng: "Tóm lại, rút ra những phần cốt yếu mà khó thấy. Thí dụ: Làm chính trị phải có nhiều thủ đoạn để giải quyết trăm ngàn việc khó khăn phức tạp; nhưng vô hình trung, là làm cho nước mạnh dân giàu, an cư lạc nghiệp".
Bốn cuốn trước hiểu "vô hình trung" theo nghĩa "không cố ý". Riêng cuốn sau cùng hình như hiểu theo nghĩa "chung qui", "rốt cuộc".]
Theo Tiến Sĩ Sử Gia Nguyễn Duy Chính (Việt Thức) cho hay:
[Để biết thêm rằng mình sai lầm tôi có tìm một vài cuốn từ điển tiếng Việt trong nhà thấy Đại Từ Điển Tiếng Việt [Nguyễn Như Ý chủ biên] (Hà Nội:VH-TT, 1999) tr. 1826:
vô hình trung: Không cố ý, không chủ tâm, tự nhiên mà có với thí dụ: Như thế vô hình trung anh lại không ủng hộ nó.
Tôi cũng tra Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị [tác giả Lê Ngọc Trụ (bản in trong nước trước 1975, Đại Nam tái bản hải ngoại không đề năm), tr. 117 cũng thấy viết vô hình trung trong mục chữ TRUNG [中]. Cụ Lê Ngọc Trụ là một học giả nổi tiếng nên chúng ta có thể theo mà không sợ nhầm lẫn…
Hán Ngữ đại từ điển (Thượng Hải từ thư, 1986) viết như sau:
無形中:亦作“無形之中”。
||不知不覺之間;不具備名義而有其實質之情況下。
瞿秋白《論大眾文藝‧大眾文藝的問題》:“無形之中對於革命的階級意識的生長,發生極頑固的抵抗力。”
峻青《秋色賦‧女英雄孫玉敏》:“她一氣教會了四十多個妹妹,能夠很熟練地埋雷,她無形中成了整訓中的婦女核心。”]
Từ các sự kiện trên đã cho chúng tôi ngạc nhiên lớn và không khỏi xót xa cho kho tàng ngữ vựng mà Ông Cha chúng ta để lại. Chúng ta đang vô tình đánh mất một viên ngọc quý để đổi lấy hạt sỏi thô thay vào trong các từ ngữ Hán Việt đã từng được dùng rất trong sáng và rõ ràng trong công trình vun đắp của tiền nhân.
Người viết bài (Chân Phương) xin tạm phiên âm đoạn Hán văn của Hán Ngữ đại từ điển mà sử gia Nguyễn Duy Chính đã đem về bên trên như sau:
Phiên âm: [Vô hình trung: diệc tác “vô hình chi trung”.
|| Bất tri bất giác chi gian; bất cụ bị danh nghĩa nhi hữu kỳ thực chất chi tình huống hạ.
Cù Thu Bạch; Luận đại chúng văn nghệ, đại chúng văn nghệ đích vấn đề: “Vô hình chi trung đối ư cách mệnh đích giai cấp ý thức đích sinh trưởng, phát sinh cực ngoan cố đích để kháng lực.”
Tuấn Thanh; Thu Sắc Phú, Nữ anh hùng Tôn Ngọc Mẫn: “Tha nhất khí giáo hội liễu tứ thập đa cá muội muội, năng cú ngận thục luyện địa mai lôi, tha vô hình trung thành liễu chỉnh huấn trung đích phụ nữ hạch tâm.”]
Xin dịch sang tiếng Việt như sau:
[Vô hình trung (hầu như, dường như): cũng được hiểu là “vô hình”
|| Sự vô tình; không có tên gọi đầy đủ để nói lên thực chất của sự việc.
Theo Cù Thu Bạch, trong “Luận đề về văn nghệ quần chúng”; thì:
“DƯỜNG NHƯ, trong sự phát triển về ý thức cách mạng giai cấp đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt.”
Tuấn Thanh, trong “Thu Sắc Phú, Nữ anh hùng Tôn Ngọc Mẫn”:
“Cô ấy liên tục dạy hơn bốn mươi chị em, huấn luyện bản lãnh đủ thành thạo việc chôn dấu địa lôi, cô ta HẦU NHƯ trở thành hạt nhân trong vấn đề rèn luyện và củng cố (lực lượng) phụ nữ.] (Chân Phương dịch)
Trong một câu văn khác, người Trung hoa đã dùng như sau:
[她无形中成了我们的顾问 – Tha vô hình trung thành liễu ngã môn đích cố vấn.
Cô ta HẦU NHƯ trở thành cố vấn của chúng tôi.]
Như thế, rõ ràng chữ “vô hình trung” không có nghĩa gì khác hơn là “hầu như, dường như” và là một trạng từ bình thường theo nghĩa tiếng Anh là “virtually”. Nghĩa này hoàn toàn khác với “vô hình chung” mà trước nay chúng tôi biết rằng chỉ mới được dùng từ thời Phong Hóa – Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn (1930’s).
Quả thật, chúng tôi đồng ý với nhận định của bí danh “anhcasg” rằng đây là một chữ “Hán Việt” mới được mượn và dùng trong giai đoạn chữ Quốc ngữ đang phát triển mạnh mẽ. Chính vì sự xuất hiện của trong dân gian và trong làng văn bút Việt Namchưa quá lâu, nên các từ điển Việt ngữ hầu như không kịp cập nhật ngoại trừ cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị do học giả Lê Ngọc Trụ viết (1959) như Sử Gia NDC đã dẫn. Cụ Lê Ngọc Trụ là một học giả khả kính về Việt ngữ và cũng là người hiệu đính bộ Việt Nam Tự Điển do Lê văn Đức chủ biên (Khai Trí, 1970). Vì thế, trong cuốn Việt Nam Từ Điển này cũng có chữ “Vô hình trung” và được giải nghĩa là: ”Tóm lại, rút ra những phần cốt yếu mà khó thấy. Thí dụ: Làm chính trị phải có nhiều thủ đoạn để giải quyết trăm ngàn việc khó khăn phức tạp; nhưng vô hình trung, là làm cho nước mạnh dân giàu, an cư lạc nghiệp”.
Từ đây, chúng tôi nghĩ rằng, cái sai vô tình và ngoài ý muốn của cụ Lê Ngọc Trụ đã bị hậu sinh nhắm mắt noi theo một cách mù quáng mà không hề có sự tìm hiểu một cách độc lập… Trong đó, lần lượt có các cuốn Từ Điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (1988), Từ Điển Việt Hán của Hà-nội (1990), rồi Đại Từ Điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (1999)…
Học sinh chép bài của nhau để nộp cho Thầy Cô giáo đã là điều xấu và đáng chê trách. Người nghiên cứu soạn sách, nhất là khi soạn tự điển cho quần chúng noi theo cũng “cọp dê” mà thiếu suy nghĩ kiểm chứng, thì hậu quả đến thật khôn lường! Nếu chỉ “sao y bản chính” từ người khác, thì soạn từ điển để làm gì, ngoài việc ham danh ham lợi?
Quả thật, như chúng tôi đã dẫn, “vô hình trung” (無形中, 无形中 – Viết theo lối giản thể) chỉ là một trạng từ có nghĩa “hầu như”, “dường như” và không giống như giải thích của các cuốn từ điển kể trên.
Sau đây, chúng tôi xin ghi nhận các trường hợp mà chữ “vô hình chung” (无形终) được dùng bởi các văn thi sĩ người miền Trung và miền Bắc là những người có được ảnh hưởng ít nhiều từ Phong hóa – Ngày nay, Tự Lực Văn Đoàn:
“Tôi viết ra được những bài viết, những bài thơ này chỉ là vì những Thầy Cô đã tận tâm dậy dỗ cho đám học trò chúng tôi và nhất là giáo sư Doãn Quốc Sỹ đã VÔ HÌNH CHUNG cho tôi cái hứng ngồi nghe Thầy đọc thơ văn trong lớp. Tôi đã phải sống xa quê hương quá lâu nhưng thực ra trong tôi, tôi luôn luôn có quê hương, có tình đồng hương và có tình Thầy Trò của riêng tôi.”
Ðàm Trung Phán – TÌNH THẦY TRÒ VÀ KIẾP THA HƯƠNG
Mùa Tuyết Rơi tạiCanada
Tháng 12, 1991″
“Lam Nguyên trong bài “Biểu Cảm Cách Tân”, (TG&TP, II, trang 223,) đã cho thấy VÔ HÌNH CHUNG Du Tử Lê đã là biểu tượng của “Tân kỳ biệt chí / mới mẻ độc đáo,” lời của tác gia Trung Hoa Tiết Bảo Thoa, khi bàn về tác phẩm “Hồng Lâu Mộng” của Tào Tuyết Cần.”
(Lê Vương Ngọc – anh ruột nhà thơ Du Tử Lê, trong Tuyển Tập Du Tử Lê 50 năm).
Đặc biệt người em út trong gia đình Nhất Linh của Tự Lực Văn Đoàn là Bác Sĩ Nguyễn Tường Bách:
“Gia đình Khái Hưng ở ngay bên tòa soạn cho tiện công việc. VÔ HÌNH CHUNG, anh cũng như một vị “Tổng Thư Ký tòa soạn” tuy không có chức vụ đó. Mỗi ngày, bài vở thư từ chồng chất trên các bàn giấy. Hai anh Khái Hưng và Thạch Lam có nhiệm vụ giải quyết, một công việc phiền phúc và khô khan. Sau này, khi rỗi, tôi cũng có khi đến giúp vào nhiệm vụ này. “(Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách – trong Tưởng Nhớ Khái Hưng)
Cả ba thí dụ trên cho chúng ta thấy rằng, “vô hình chung” đã xuất hiện ít nhất trong khoảng thời gian phát triển mạnh nhất của tiếng Quốc Ngữ và đã được dùng với ý nghĩa của chữ “chung – 终” là “cuối cùng”, phù hợp với giải thích của Lê văn Đức trong mục chữ “vô hình trung” (do sự nhầm lẫn đáng tiếc của cụ Lê Ngọc Trụ gây ra).
Trên tất cả các lý lẽ vừa kể ra, chúng ta hãy tìm hiểu thẳng vào Hán văn để xem người Trung Hoa dùng chữ “vô hình chung – 无形终“ này ra sao:
1/ Thời Chiến Quốc, khi được Tề Hoàn Công hỏi về phép trị nước sao cho ngôi vua được vững bền; Quản Trọng nói:
柔为无形终不断! Nhu vi VÔ HÌNH CHUNG bất đoạn!
An dân (trị dân một cách mềm mỏng) TẤT không mất nước!
2/ 大道无形终有义
Đại đạo VÔ HÌNH CHUNG hữu nghĩa (phiên âm Hán-Việt)
Đạo lớn ĐƯA ĐẾN phép tắc. (Phùng Khánh dịch)
Đại đạo VÔ HÌNH CHUNG hữu nghĩa (phiên âm Hán-Việt)
Đạo lớn ĐƯA ĐẾN phép tắc. (Phùng Khánh dịch)
3/ 烟尘无形终被风所散
Yên trần VÔ HÌNH CHUNG bị phong sở tán
Khói bụi CUỐI CÙNG CŨNG theo gió tản tự tan.
Yên trần VÔ HÌNH CHUNG bị phong sở tán
Khói bụi CUỐI CÙNG CŨNG theo gió tản tự tan.
4/ 魂去无形终虚 幻. 谁云作者太疯癫 只是少人?
Hồn khứ VÔ HÌNH CHUNG hư ảo. Thùy vân tác giả thái phong điên chỉ thị thiếu nhân?
Lạc hồn ĐẾN MỨC hoảng loạn. Ai hay chăng, ta đã cuồng điên vì nhớ người?
Trong bốn thí dụ vừa kể, ngoài câu số 2 do Ni Sư Trí Hải dịch, tất cả ba câu còn lại đều do người viết (Chân Phương) dịch lại theo hiểu biết mông muội của mình.
Với các thí dụ kể trên, chúng ta thấy rõ nghĩa của chữ “vô hình chung” trong bất kỳ trường hợp nào, Hán văn hay Hán Việt, đều có điểm chung với nhau là luôn luôn nhấn mạnh đến ý nghĩa của chữ “chung – 终” là “cuối cùng”.
Từ một nhầm lẫn vô tình của học giả Lê Ngọc Trụ và việc “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia” tiếp theo sau đó của Lê văn Đức trong Việt Nam Tự Điển, các nhà soạn tự điển sau này của Hanoi đã “cọp dê” nguyên xi cái sai của người khác vào làm của mình. Nếu còn cắp sách đến trường, tác giả của những cuốn tự điển tiếng Việt sau này đã được hưởng hai trái trứng vịt to tướng chứ chẳng chơi!
Nói thế là còn nhẹ vì khi sinh tiền, Ông Cụ thường nhắc nhở chúng tôi rằng: “Làm bác sĩ chữa bệnh mà sai, giết một mạng người!
Làm tướng cầm quân mà sai, giết cả một đạo quân dưới trướng!
Viết sách sai, giết bao thế hệ theo sau mình!”
Lại còn có tác giả làm ra vẻ hiểu biết, tách từng chữ để dịch ra mỗi chữ một của hai chữ “vô hình chung” và “vô hình trung” và kết luận “vô hình trung” đúng hơn vì có chữ “trung” nghĩa là bên trong(?). Họ có biết làm thế khác nào dịch từng chữ “horse-fly” là “chuyến bay do ngựa kéo” không hả trời(!)
Chúng tôi gọi chữ “vô hình chung” là viên ngọc quý khi so với “vô hình trung” chỉ là hạt sỏi thô, không phải là điều quá đáng. Đơn giản, khi hiểu được ý nghĩa của nó, người ta sẽ dùng nó một cách hạn chế và đúng nơi đúng chỗ mà không bừa bãi như thói quen khoe chữ thời nào cũng gặp được:
1/ Ông Cha chúng ta đã có nhiều chữ khác trong Việt ngữ đủ để thay thế cho chữ “vô hình chung” này. Thế nhưng, sao các Cụ lại mượn thêm chữ mới từ Hán văn để làm tốn giấy bút của con cháu ngày sau? Xin thưa: Trong mọi trường hợp khi dùng chữ “vô hình chung” trong câu văn Việt ngữ, chúng ta đều có thể tìm ra được ngữ vựng tương đương để diễn tả điều cần viết hoặc nói ra. Điều đó có thể chứng thực khi chúng ta dịch từ Hán văn sang Việt ngữ trong bốn câu 1/, 2/, 3/, và 4/. Tuy nhiên mượn một tiếng Hán văn để Việt hóa và dùng trong trường hợp này (chữ “vô hình chung”), ý của Ông Cha chúng ta muốn nhấn mạnh một yếu tố quan trọng trong câu văn đó. Ý muốn nhấn mạnh, xin được giải thích rõ hơn trong phần kế tiếp sau đây.
2/ Như đã có lần đề cập trong bài viết của Sử Gia Nguyễn Duy Chính, chúng tôi được dạy rằng, “vô hình chung” là một trạng từ khá đặc biệt dùng để tạo thành mệnh đề hậu quả trong câu “điều kiện cách”. Thật vậy, trong mọi hình thức của câu văn nói hay viết, nó luôn luôn được dùng làm liên từ (từ nối) giữa hai mệnh đề giả thiết và mệnh đề hậu quả theo sau. Bốn câu Hán văn đã là bằng chứng nguyên thủy cho luận đề này. Chúng tôi xin được kể lại các trường hợp khác trong Việt ngữ khi dùng chữ “vô hình chung”. Bắt đầu với câu của GS Đàm Trung Phán:
“Tôi viết ra được những bài viết, những bài thơ này chỉ là vì những Thầy Cô đã tận tâm dậy dỗ cho đám học trò chúng tôi và nhất là giáo sư Doãn Quốc Sỹ đã VÔ HÌNH CHUNG cho tôi cái hứng ngồi nghe Thầy đọc thơ văn trong lớp.”
Kế tiếp là lời của bào huynh của thi sĩ Du Tử Lê khi viết về em mình:
“Lam Nguyên trong bài “Biểu Cảm Cách Tân”, (TG&TP, II, trang 223,) đã cho thấy VÔ HÌNH CHUNG Du Tử Lê đã là biểu tượng của “Tân kỳ biệt chí / mới mẻ độc đáo,” lời của tác gia Trung Hoa Tiết Bảo Thoa, khi bàn về tác phẩm “Hồng Lâu Mộng” của Tào Tuyết Cần.“
Với hai ví dụ kể trên, vai trò liên từ và trạng từ dùng để thiết lập mệnh đề hậu quả đã rõ ràng. Và, ý của tiền nhân khi mượn chữ “vô hình chung” vào trong câu văn là nhấn mạnh đến tương quan nhân-quả của hai mệnh đề (các sự việc) trong câu đang nói hay viết ra. Tuy nhiên đôi khi chúng ta cũng nhìn thấy chữ “vô hình chung” được nằm ở đầu câu thì sao? Xin được chuyển sang đề mục tiếp theo.
3/ Có những trường hợp trong câu văn viết hoặc văn nói, chúng ta bắt gặp chữ “vô hình chung” nằm ở đầu câu thay vì ở giữa hai mệnh đề như một cấu trúc bình thường. Bào đệ của các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và Thạch Lam là BS Nguyễn Tường Bách viết:
“Gia đình Khái Hưng ở ngay bên tòa soạn cho tiện công việc. VÔ HÌNH CHUNG, anh cũng như một vị “Tổng Thư Ký tòa soạn” tuy không có chức vụ đó.”
Trong đoạn hai câu văn phía trên, BS Nguyễn Tường Bách đã lúng túng trong diễn đạt của mình. Để đúng văn phạm, ông không thể ngắt chúng thành hai câu độc lập vì câu thứ hai hoàn toàn không có nghĩa nếu không có câu đầu tiên. Vì thế, BS đã có thể viết câu đó như sau:
“Gia đình Khái Hưng ở ngay bên tòa soạn cho tiện công việc; VÔ HÌNH CHUNG, anh cũng như một vị “Tổng Thư Ký tòa soạn” tuy không có chức vụ đó.”
Trong câu văn đã được nối lại sau này bằng dấu chấm phẩy (;) thay cho dấu chấm của BS Bách, hai mệnh đề độc lập đã được nối với nhau để được đủ nghĩa và đúng với mục đích nhấn mạnh vào tính cách nhân-quả trong câu điều kiện cách này!
4/ Sự lúng túng và nhầm lẫn của BS Nguyễn Tường Bách xảy ra, chứng tỏ ông đã từng biết cách dùng chữ “vô hình chung” khi đặt ở đầu câu. Chúng tôi ngờ rằng do lâu ngày không dùng khiến ông quên mất. Nhưng chúng tôi tin chắc căn bản vẫn bám cứng trong những con người đong đầy chữ nghĩa như gia đình các ông.
5/ Vậy, khi nào người Việt, nhất là người Bắc đặt chữ “vô hình chung” này lên đầu trong một câu văn điều kiện cách mang tính nhân-quả? Hãy nghe mẹ chồng an ủi con dâu bằng câu nói sau đây:
“Vô hình chung, anh ấy là người bạc nghĩa, con à!” (2)
Vâng, đó là một câu nói đầy đủ ý và nghĩa trong văn phạm Việt ngữ cho dù chúng ta chỉ nhìn hoặc nghe thấy có một mệnh đề mà thôi!
Tuy chỉ nhìn hoặc nghe thấy một mệnh đề sau chữ “vô hình chung”, nhưng thật ra, trong câu đó người nói đã che giấu mệnh đề đầu tiên. Với một câu rõ ràng hơn, người mẹ chồng đã nói rằng:
“Mẹ tưởng anh ấy tử tế nhưng cuối cùng, anh ấy là người bạc nghĩa, con à!” (1)
Câu số (1) đã được thay thế bằng câu (2) vừa có ý che giấu sự thất vọng của người mẹ chồng đối với con trai mình, vừa muốn nhấn mạnh ý nghĩa chia sẻ và an ủi đối với nàng dâu bất hạnh!
Có lẽ, chỉ có các bà mẹ chồng người Bắc mới tìm được lối diễn đạt ý nghĩ một cách kín đáo và phức tạp đến như thế mà thôi!
Nói chung, người ta dùng “vô hình chung” đứng ở đầu câu khi cố tình giấu đi mệnh đề giả thiết và mong đợi rằng người nghe hoặc người đọc đủ khả năng hiểu ngầm mệnh đề đã không được nói hoặc viết rõ ra đó!
6/ Cuối cùng, vì các lẽ kể trên mà chúng ta thấy trước kia “vô hình chung” đã ít được dùng bừa bãi trong Việt ngữ. Và đó cũng là lý do khiến các nhà soạn từ điển Việt ngữ không kịp cập nhật cho đến năm 1959 khi cụ Lê Ngọc Trụ ghi lại một cách nhầm lẫn trong Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị. Rồi sau đó, sự nhầm lẫn này bị “cọp dê” mà không được nghiên cứu, kiểm chứng một cách kỹ lưỡng. Ngày nay, khi những người thiếu hiểu biết nhưng lại “sính chữ” vớ được một chữ Hán Việt “vô hình trung” được ghi, không chỉ trong tự điển mà còn là “Đại Tự Điển”, thì còn gì bằng mà không vung vít xài cho có vẻ “trí thức” với đời?
Người ta đang ném đi viên ngọc quý “vô hình chung” trong kho tàng ngữ vựng Việt ngữ (Hán-Việt) một cách không thương tiếc để nhặt hạt sỏi to tướng “vô hình trung” với nghĩa què quặt và đem lên sùng bái như món trang sức thời thượng… Có còn gì mỉa mai hơn cho tiền nhân ra sức vun bồi Quốc ngữ cho chúng ta đang dùng và… phá hủy?
Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi, tiếng ru muôn đời!
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi, tiếng ru muôn đời!
Tiếng nước tôi bốn ngàn năm ròng rã buồn vui!
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!
Tiếng nước tôi, tiếng Mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!…
(Tình Ca – Phạm Duy)
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!
Tiếng nước tôi, tiếng Mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!…
(Tình Ca – Phạm Duy)
Falls Church, VẠ1/12/13
Chân Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét