Hiểm họa Trung Quốc và bài học Thổ Nhĩ Kỳ
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Chiến tranh sẽ đến. Không cần phải là nhà tiên tri hay nhà khoa học xã hội cũng có thể đoán được. Lịch sử loài người đã chứng minh chiến tranh và hòa bình là hai mặt biện chứng trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Vegetius trong tác phẩm nổi tiếng Quan tâm về các vấn đề quân sự (De Re Militari) xuất bản vào thế kỷ thứ năm đã viết “Muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh”. Từ chiến tranh bộ lạc sang chiến tranh thuộc địa, chiến tranh khu vực, chiến tranh thế giới, chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh lạnh, chiến tranh giữa những người cùng chủng tộc, trong từng giờ, từng phút máu của nhân loại đã và đang đổ xuống tại nhiều nơi trên trái địa cầu ngày càng chật hẹp này.
Trong lúc chiến tranh là một sự kiện khó thể tránh khỏi, trong đó, nhiều nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát và quyết định của giới lãnh đạo và nhân dân các quốc gia nạn nhân, những nhà lãnh đạo khôn ngoan, có tầm nhìn xa, biết chọn đúng thế đứng chính trị, không những tránh được chiến tranh mà còn vận dụng các xung đột quốc tế để đem về các lợi ích lâu dài cho quốc gia họ.
Mustafa Kemal Atatürk nhìn về tương lai Thổ Nhĩ Kỳ
Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự lãnh đạo của Mustafa Kemal Atatürk từ năm 1923 đến năm 1938 và các chính phủ về sau là một bài học lớn cho nhiều quốc gia vừa thoát khỏi chế độ phong kiến và thuộc địa. Trong số đó, hai bài học quan trọng:
1. Sự kết hợp hài hòa giữa tinh hoa văn hóa của dân tộc và hướng phát triển dân chủ của thời đại.
2. Người lãnh đạo phải có tầm nhìn xa và khi cần phải biết chọn lựa dứt khoát một thế đứng trong bang giao quốc tế có lợi cho sự phát triển lâu dài của đất nước.
Mustafa Kemal Atatürk, thường được gọi tắt Mustafa Kemal, sinh năm 1881 tại Salonika trong một gia đình theo Hồi Giáo, thuộc Đế Chế Ottoman. Ông vào trường chuyên quân sự khi tuổi mới 12. Mustafa Kemal được nhận vào học viện quân sự năm 1902 và tốt nghiệp đại học quân sự năm 1905. Khi thế chiến thứ nhất bùng nổ, Đế Chế Ottoman liên minh với Đức và Hung. Mustafa Kemal chỉ huy sư đoàn 19 thuộc binh đoàn 2 và đưa quân vào hành lang Đông Âu. Ông là một sĩ quan xuất sắc, dạn dày trận mạc, chiến đấu dũng cảm và được tặng thưởng 24 huân chương chiến công. Mặc dù những năm cuối của thế chiến thứ nhất, liên quân Đức-Hung thua nhiều trận lớn nhưng binh đoàn 16 dưới quyền Mustafa Kemal đã liên tục đánh bại quân Nga. Khi Cách Mạng Cộng Sản 1917 bùng nổ, Nga rút quân.
Sau thế chiến thứ nhất, Đế Chế Ottoman sụp đổ, lãnh thổ bị chia cắt và phần Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay bị đồng minh dưới quyền của Anh chiếm đóng. Tướng Mustafa Kemal thoát ly khỏi chế độ Ottoman để phát động một phong trào võ trang đòi độc lập cho Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù bị kết án tử hình vắng mặt, Mustafa Kemal vẫn được bầu vào quốc hội Ottoman. Khi quốc hội này bị Anh giải tán, Mustafa Kemal kêu gọi bầu quốc hội khác và đặt trụ sở tại bản doanh của phong trào độc lập ở Ankara. Quốc hội mới được bầu ra qua danh xưng Đại Nghị Quốc Gia (Grand National Assembly) gọi tắt là GNA. Ngày 5 tháng 8 năm 1921, Mustafa Kemal được GNA phong làm tổng tư lịnh quân đội phong trào giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ. Quân khởi nghĩa dưới quyền Mustafa Kemal đánh bại liên quân Anh, Pháp, Ý, Hy Lạp tại nhiều nơi. Kết quả, hiệp ước Lausanne ra đời ngày 24 tháng 7 năm 1923 công nhận nền độc lập của Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ.
Tức khắc sau khi trở thành tổng thống đầu tiên của nền cộng hòa non trẻ, Mustafa Kemal đặt mục tiêu hiện đại hóa đất nước lên hàng đầu. Trung tâm quyền lực chính trị của Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn này là GNA trong đó đảng Cộng Hòa Nhân Dân do Mustafa Kemal thành lập giữ gần như đa số tuyệt đối. Hiện đại hóa không chỉ được tiến hành trong lãnh vực kinh tế nhưng quan trọng hơn trong chính trị, văn hóa, giáo dục. Trong suốt thời gian lãnh đạo quốc gia, Mustafa Kemal thực hiện hàng loạt các biện pháp cấp tiến bao gồm việc giải tán các cơ sở giáo dục Hồi Giáo, bỏ tiếng Á Rập và thay bằng ngôn ngữ Thổ dùng mẫu tự La Tinh, thành lập các ủy ban nghiên cứu sự thành công của hệ thống kinh tế Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Thụy Điển để áp dụng một cách hữu hiệu vào điều kiện một quốc gia Hồi Giáo như Thổ. Mùa hè 1924, Mustafa Kemal còn mời nhà giáo dục Mỹ John Frederick Dewey thuộc trường đại học Columbia, đến Thổ để cố vấn chính phủ về cải cách giáo dục.
Cơ sở lý luận Kemal
Để định hướng lâu dài cho đất nước, Mustafa Kemal xây dựng cơ sở lý luận Kemal (Kemalism) đặt căn bản trên ba thành tố chính: Cộng Hòa (Republicanism), Dân Túy (Populism) và Thế Tục (Secularism). Về thành tố Cộng Hòa, Mustafa Kemal thay thế các nguyên tắc lãnh đạo quân chủ bằng các nguyên tắc dân chủ pháp trị trong đó các quyền dân sự do chính nhân dân quyết định qua hình thức dân chủ đại diện. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất và được bầu lên qua một cuộc đầu phiếu phổ thông. Về thành tố Dân Túy (Populism), Mustafa Kemal quan niệm cách mạng dân tộc dân chủ của Thổ Nhĩ Kỳ là một cuộc cách mạng xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích của toàn dân. Ông đề cao các giá trị văn hóa lịch sử Thổ và xem đó như hành trang lên đường hướng tới một tương lai sáng lạng cho dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ. Về thành tố Thế Tục (Secularism ), Mustafa Kemal chủ trương tách tôn giáo ra khỏi nhà nước. Ngay cả câu “Nền tảng tôn giáo của quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ là Hồi Giáo” trước đó được xem như là tự nhiên trong một nước với 99.8% dân số theo đạo Hồi, cũng bị gạch bỏ khỏi hiến pháp. Thái độ dứt khoát của Mustafa Kemal về tôn giáo không nhằm xóa bỏ tôn giáo hay thù địch tôn giáo nhưng nhằm mở rộng tự do tư tưởng và nâng cao vai trò độc lập của chính phủ trong một xã hội vốn đã bị ảnh hưởng tôn giáo đè nặng suốt sáu thế kỷ dưới thời Đế Chế Ottoman.
Chính sách Thổ Nhĩ Kỳ trong thế chiến thứ hai
Về đối ngoại, vài năm trước khi qua đời vào ngày 10 tháng 11 năm 1938, Mustafa Kemal tìm cách cải thiện mối quan hệ ngoại giao với Anh để cân bằng cán cân ảnh hưởng với Liên Xô.
Tổng thống thứ hai của Thổ Nhĩ Kỳ Mustafa İsmet İnönü, người kế vị Mustafa Kemal ý thức sự chịu đựng của nhân dân Thổ trong suốt 14 năm chiến tranh từ 1908 đến 1922 nên quyết tâm bằng mọi cách tránh đưa đất nước vào vòng chiến một lần nữa. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, Mustafa İsmet İnönü tuyên bố Thổ Nhĩ Kỳ trung lập. Nhờ thế, trong lúc phần lớn châu Âu chìm trong biển lửa, Thổ Nhĩ Kỳ dù là vị trí trái độn giữa hai khối, không bị ảnh hưởng gì.
Tuy nhiên, cuối tháng 2 năm 1945, khi số phận của khối trục chỉ còn tính bằng ngày, Tổng thống Mustafa İsmet İnönü đã khôn khéo chọn lựa đứng về phía đồng minh. Dù không có một người lính Thổ nào ra trận, theo quyết định của hội nghị Yalta, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn được xem là quốc gia đồng minh và là một trong những hội viên thành lập đầu tiên của Liên Hiệp Quốc. Cả Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill đều muốn Thổ Nhĩ Kỹ, quốc gia có vị trí chiến lược ngay sân sau của Liên Xô, đứng về phía họ nên đã khuyến khích Thổ tham gia phe đồng minh. Tương tự, Joseph Stalin cũng đánh giá cao vị trí chiến lược của Thổ và mặc dù không tin tưởng hẳn, y vẫn nghĩ chính phủ Thổ sẽ tiếp tục ủng hộ chính sách đối ngoại của Liên Xô như trước đây nên đã đồng ý đề nghị của Thủ tướng Churchill.
Liên Xô tham vọng độc chiếm Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ
Ngay sau khi thế chiến thứ hai vừa chấm dứt, tham vọng bành trướng về phía đông của Stalin đang trên đà chiến thắng lộ rõ nhất là qua xung đột Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ (The Turkish Straits) gồm hai eo biển Bosphorus và Dardanelles nằm giữa Bắc Hải và Địa Trung Hải. Eo biển Thổ là nguồn hải lưu huyết mạch và là chiếc cầu biển nối hai châu Âu và Á. Eo biển là trái tim của Thổ Nhĩ Kỳ. Bất cứ quốc gia nào làm chủ Eo biển sẽ giữ vị trí quân sự và chính trị quyết định trong toàn vùng Biển Bắc và khu vực Balkans.
Ngày 19 tháng Ba năm 1945, Ngoại trưởng Liên Xô Vyacheslav M. Molotov thông báo cho đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ tại Liên Xô biết Liên Xô đơn phương hủy bỏ Hiệp Ước Cam Kết Không Xâm Lược (Non-Aggression Pact) giữa Liên Xô và Thổ được ký kết ngày 17 tháng Giêng năm 1925. Tham vọng bành trướng của Liên Xô không phải chỉ là chính sách riêng của Stalin nhưng là một bước kế tục truyền thống khống chế các nước nhỏ chung quanh đã có từ thời các Sa Hoàng Nga.
Khi chính phủ Thổ tìm cách làm dịu mối quan hệ, Liên Xô đưa ra hàng loạt điều kiện bao gồm việc chia quyền điều hành Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ, Hồng quân Liên Xô có trách nhiệm bảo vệ an ninh Eo biển, và ngoài ra, Thổ phải trao trả cho Liên Xô hai vùng đất Kars và Ardahan đang thuộc lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ. Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ từ chối.
Thổ Nhĩ Kỳ chọn gia nhập NATO
Trước sự đe dọa của Liên Xô và sự phân cực rõ nét của chính trị thế giới sau thế chiến thứ hai, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Mustafa İsmet İnönü ý thức rằng để bảo vệ chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ và hiện đại hóa đất nước, Thổ Nhĩ Kỳ phải từ bỏ chính sách đối ngoại hợp tác theo kiểu bình đẳng cùng có lợi với mọi quốc gia để đứng về một phía có triển vọng phục vụ tốt nhất cho quyền lợi trước mắt cũng như lâu dài của Thổ. Thổ Nhĩ Kỳ dứt khoát đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh với Liên Xô.
Ngày 22 tháng 5 năm 1947, Tổng thống Truman ký quyết định viện trợ cho Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Năm 1948, các cố vấn quân sự Mỹ bắt đầu giúp đỡ chính phủ Thổ tái trang bị và hiện đại hóa quân đội.
Mỹ và Anh muốn dùng đất Thổ như một tiền đồn và quân đội Thổ như một đơn vị tiền phương để làm chậm sức tấn công của bộ binh Liên Xô một khi chiến tranh giữa hai khối bùng nổ trong lúc chờ đợi không lực Anh Mỹ mở các cuộc phản công phát xuất từ các căn cứ không quân đặt tại Ai Cập. Dĩ nhiên, chính phủ Thổ biết rõ thâm ý của Anh và Mỹ nhưng đó là cái giá phải chọn vì nền an ninh và sự thịnh vượng của quốc gia Thổ.
Theo tổng kết được ghi lại trong tài liệu Tương lai chính sách đối ngoại của Thổ Nhĩ Kỳ (The future of Turkish Foreign Policy) của hai tác giả Lenore G. Martin và Dimitris Keridis, trong năm 1948, Mỹ viện trợ cho Thổ Nhĩ Kỳ 180 phi cơ chiến đấu F-47, 30 phi cơ oanh tạc B-26 và 86 phi cơ vận tải C-47. Trong thời điểm 1948, đó là một viện trợ quân sự lớn. Với số vũ khí mới, quân đội Thổ không những có thể ngăn chặn mà nếu cần còn có khả năng oanh tạc các nguồn dầu khí của Liên Xô tại Romania và trong vùng Caucasus.
Tuy nhiên súng đạn không phải chỉ là những gì Thổ Nhĩ Kỳ muốn nhưng quan trọng hơn là sự bảo đảm bằng một liên minh quân sự quốc tế. Nói rõ hơn, Thổ muốn trở thành hội viên chính thức của Tổ Chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Tổng thống Mustafa İsmet İnönü tin tưởng hỏa lực hùng hậu của NATO và Hạm đội Địa Trung Hải của Mỹ là bức tường thành vững chắc nhất để bảo vệ Thổ Nhĩ Kỳ chống lại Liên Xô xâm lược. Để chứng tỏ thiện chí, Thổ Nhĩ Kỳ gởi quân tham chiến bên cạnh các lực lượng Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên.
Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO.
Thổ Nhĩ Kỳ sau khi gia nhập NATO
Trước các thành tựu về kinh tế, chính trị và quốc phòng của Thổ Nhĩ Kỳ, không cần phải phân tích, mọi người đều có thể hiểu, chính hạt mầm dân chủ quý giá mà những người thành lập cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ gieo trên mảnh đất đầy phân hóa vì độc tài phong kiến đã lớn lên thành cây xanh, trái ngọt cho các thế hệ Thổ Nhĩ Kỳ hôm nay. Mười năm sau ngày độc lập, Tổng thống Mustafa Kemal đã phát biểu “Cộng hòa có nghĩa lãnh đạo một quốc gia dân chủ. Chúng ta thành lập chế độ Cộng Hòa đã mười năm, nó phải thỏa mãn các đòi hỏi của một chế độ dân chủ khi cần đến.”
Sự chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh. Con đường dẫn đến dân chủ của Thổ Nhĩ Kỳ không phải bằng phẳng. Với một quốc gia mang truyền thống quân sự từ thời Đế Chế Ottoman, trong suốt mười năm đầu sau độc lập, nước Thổ vẫn còn chịu đựng nhiều biến cố đảo chánh, ám sát, lật đổ, treo cổ, tranh chấp giữa chính quyền dân sự và các tưởng lãnh, nhưng tất cả đều không rung chuyển được nền tảng dân chủ tại Thổ.
Và cũng không cần phải phân tích nhiều, mọi người đều hiểu sự chọn lựa dứt khoát của cấp lãnh đạo Thổ sau thế chiến thứ hai đã có ảnh hưởng quyết định trong việc đưa đất nước vượt qua hẳn quá khứ chậm tiến lạc hậu để trở thành một quốc gia dân chủ tiến bộ duy nhất trong khối các quốc gia Hồi Giáo. Thật vậy, nếu 1945, các lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ chấp nhận các yêu sách của Stalin và trở thành một chư hầu không Cộng Sản của Liên Xô, nước Thổ vẫn là một nước Hồi Giáo nghèo nàn, lạc hậu và yếu kém như nhiều quốc gia Hồi Giáo Á Phi khác hiện nay.
Trung Quốc muốn gì ở Việt Nam?
Mặc dù có những thay đổi chiến thuật trong từng thời kỳ, về căn bản, mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc từ khi bắt đầu can dự vào cuộc chiến Việt Nam đến nay vẫn không thay đổi. Một cách vắn tắt như đã viết trong các bài trước, Trung Quốc muốn Việt Nam:
1. Hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về chế độ chính trị.
2. Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Quốc.
3. Trung Quốc độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Về mặt chính trị. Hai nỗi lo lớn của giới lãnh đạo CS Trung Quốc là sợ bị bao vây từ bên ngoài và diễn biến hòa bình bên trong nội bộ Trung Quốc. Nhìn quanh, họ chỉ thấy kẻ thù. Thật vậy, hầu hết các quốc gia dân chủ trong vùng từ Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức độ khác nhau nhưng đều là các quốc gia đang có những mâu thuẫn căn bản với Trung Quốc, không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ chính trị. Mặc dù không công khai tuyên bố, giới lãnh đạo CS Trung Quốc cũng biết hiện nay chỉ còn năm quốc gia theo một loại chủ nghĩa mà giáo sư sử học Roderick Macfarquhar, thuộc đại học Harvard, gọi là chủ nghĩa Lê Nin không có Mác, tức một nhà nước chuyên chính sắc máu nhưng không còn dựa trên nền tảng triết lý duy vật. Hai cơ chế chính trị Cộng Sản Trung Quốc và CSVN có một mối quan hệ hữu cơ mật thiết với các yếu tố tương quan và phụ thuộc vào nhau. Sự lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào Trung Quốc không chỉ giúp giữ an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Không giống như điều kiện chính trị thời điểm hội nghị Thành Đô, các phát triển chính trị và quân sự vùng Á Châu và Thái Bình Dương đang diễn ra cho thấy cuộc cách mạng dân chủ có nhiều khả năng diễn ra tại Việt Nam sớm hơn Trung Quốc.
Về mặt kinh tế. Hơn ai hết, giới lãnh đạo CS Trung Quốc biết chế độ CS như người đi trên dây, ngồi trên lưỡi dao cạo. Sự ổn định tại Trung Quốc hiện nay chỉ là sự ổn định tạm thời vì cơ chế chính trị Trung Quốc vốn được xây dựng trên một nền tảng bất ổn. Trong suốt 40 năm từ khi chương trình hiện đại hóa của Đặng Tiểu Bình ra đời, các thế hệ lãnh đạo đảng đã tập trung vào việc phát triển kinh tế để vừa thỏa mãn nhu cầu vật chất của người dân và vừa hợp thức hóa vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Hai yếu tố hàng đầu của một nền kinh tế sản xuất là lao động và nguyên liệu. Lợi thế của Trung Quốc là nguồn lao động rẻ nhưng trong điều kiện một quốc gia có mức độ lãng phí nguyên vật liệu cao trong các nước đang phát triển như Trung Quốc, việc đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho một nền kinh tế khổng lồ nhưng lạc hậu về quản trị là một thách thức lớn cho giới lãnh đạo.
Hàng hóa của Trung Quốc xuất cảng phần lớn là hàng hóa tiêu dùng nhưng đây cũng là những loại sản phẩm mà quốc gia nào cũng có thể sản xuất được. Sự lớn mạnh của khối được gọi là các Nền Kinh Tế Đang Hứa Hẹn (Emerging Economies) trong đó Ấn Độ, với dân số 1.2 tỉ và mức xuất cảng cùng loại hàng hóa như Trung Quốc tăng 100 phần trăm trong vòng 10 năm qua là mối đe dọa lớn cho hàng hóa Trung Quốc. Để duy trì giá thành sản phẩm thấp, Trung Quốc không thể mua nguyên liệu theo giá trên các thị trường quốc tế London, New York hay nhập từ các nước châu Âu nên đã tìm cách khai thác các nguồn nguyên liệu rẻ qua chính sách thực dân đỏ bất nhân, như đang diễn ra tại nước châu Phi, như trường hợp Congo.
Riêng với Á châu, khu vực này không chỉ là thị trường tiêu thụ mà còn là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho nền kinh tế Trung Quốc. Miếng mồi ngon nhất, hấp dẫn nhất, đủ tiêu chuẩn kinh tế, chính trị, quân sự nhất không đâu khác hơn là Việt Nam. Chủ trương muốn Việt Nam là phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược châu Á của Trung Quốc quá rõ ràng, không cần phải một nhà phân tích chính trị cỡ Carlyle Thayer mới thấy mà ngay trong tác phẩm Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua Nxb Sự Thật, Hà Nội tháng 10, 1979, giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam cũng đã tự thú điều này “Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ”.
Điểm giống nhau và khác nhau giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ
Về mặt địa lý chính trị và quân sự, Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ có nhiều điểm giống nhau. Tham vọng thiên triều của các triều đại phong kiến Trung Hoa đối với các quốc gia nhỏ vùng Đông Nam Á, đặc biệt với Việt Nam, thâm độc không khác gì truyền thống nước lớn của các Sa Hoàng Nga đối với các nước Đông Âu. Hoàng Sa và Trường Sa, đôi mắt của Việt Nam nhìn ra Thái Bình Dương quan trọng không kém gì Eo biển Thổ Nhĩ Kỳ, trái tim Thổ Nhĩ Kỳ trong vùng Địa Trung Hải. Khát vọng của dân tộc Việt Nam mong được sống trong tự do, thanh bình, thịnh vượng sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá cũng sâu thẳm như ước vọng tự do, dân chủ và thịnh vượng của dân tộc Thổ sau nhiều năm chiến tranh dưới thời Đế Chế Ottoman, thế chiến thứ nhất và chiến tranh giành độc lập.
Sau thế chiến thứ hai và nhất là sau sự sụp đổ của hệ thống Cộng Sản, lục địa châu Âu hiện nay được xem là ổn định. Hầu hết các quốc gia vừa thoát khỏi chế độ Cộng Sản, kể cả Nga, vẫn còn trên đường phục hồi kinh tế, chính trị và phục hưng các giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc họ. Xung đột thế giới tới đây được các nhà phân tích kinh tế chính trị nhận xét sẽ là xung đột Á Châu, nơi đang tồn tại các hệ thống chính trị đối nghịch, các quyền lợi kinh tế đối nghịch và các chính sách phát triển đối nghịch. Vì lý do địa lý chính trị, Việt Nam được xem là một trong những điểm nóng nhất và có thể sẽ là ngòi nổ của cuộc xung đột châu Á và Thái Bình Dương.
Liệu Việt Nam có thoát khỏi chiến tranh châu Á như Thổ Nhĩ Kỳ đã đứng bên ngoài biển lửa châu Âu?
Liệu giới lãnh đạo CSVN có khả năng hóa giải các nguồn ngoại lực và biết vận dụng vị trí chiến lược của bán đảo Việt Nam một cách khôn ngoan để phục vụ cho lợi ích lâu dài của đất nước như các lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ đã làm?
Trước mắt, không có dấu hiệu gì cho thấy giới lãnh đạo CSVN có một nhận thức chính trị quốc tế sáng suốt và cũng không có khả năng nào cho thấy họ có thể từ bỏ các quyền lợi của đảng Cộng Sản vì sự sống còn của dân tộc như các lãnh đạo đảng Cộng Hòa Nhân Dân Thổ. Những chờ đợi mỏi mòn, những van xin tha thiết, những thỉnh nguyện thư trang trải hết ruột gan đều không mềm lòng những kẻ mà tham vọng quyền lực và quyền lợi đã thấm vào máu, ăn sâu vào xương tủy.
Ngay cả khi Thổ Nhĩ Kỳ nhận viện trợ của Liên Xô để tái thiết đất nước trong những năm đầu sau độc lập, Tổng thống Mustafa Kemal cũng đã công khai cam kết với nhân dân Thổ: “Quan hệ hữu nghị với Liên Xô không có nghĩa là chấp nhận ý thức hệ Cộng Sản. Chủ nghĩa Cộng Sản là một vấn đề xã hội. Các điều kiện xã hội, tôn giáo và truyền thống dân tộc của đất nước chúng ta khẳng định chủ nghĩa Cộng Sản không thể áp dụng tại Thổ Nhĩ Kỳ”. Việt Nam thì khác, từ ngày thành lập đảng, mặc cho bao đổi thay trên thế giới, các cấp lãnh đạo CSVN vẫn suốt ngày ra rả“Chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu” và quan hệ giữa hai đảng CS Việt Nam và CS Trung Quốc vẫn là quan hệ “như môi với răng”, “vừa là đồng chí vừa là anh em” như những năm trước 1975.
Còn lại gì hôm nay?
Giống như Adolf Hitler lợi dụng chính sách đối ngoại Nhân nhượng (Appeasement) của Thủ tướng Anh Neville Chamberlain trước thế chiến thứ hai để chiếm đoạt Sudetenland, lãnh thổ chiến lược và giàu tài nguyên nhất của Cộng Hòa Tiệp Khắc, Trung Quốc cũng đang lợi dụng sự bất ổn kinh tế thế giới và chính sách đối ngoại Nhân nhượng của Barack Obama để củng cố bộ máy quân sự và mở rộng ảnh hưởng tại Á Châu. Dân tộc Việt Nam phải đối diện với thách thức về cả hai mặt, bên trong, một giới lãnh đạo tham quyền cố vị, ươn hèn, và bên ngoài, một chủ nghĩa xâm lược dã man nhất trong lịch sử loài người.
Yếu tố duy nhất còn lại là sức mạnh tổng hợp của các thành phần dân tộc. Chính các thành phần dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước là lực duy nhất nằm ngoài sự kiểm soát của hai đảng Cộng Sản và cũng là lực duy nhất có khả năng đưa Việt Nam ra khỏi bờ vực chiến tranh và đưa đất nước tới một tương lai sáng lạng cho con cháu mai sau. Các thành phần dân tộc không chỉ là những người đang công khai chống đảng, những người đứng ngoài cơ chế lãnh đạo, những người không Cộng Sản nhưng là bất cứ ai nhận thức được manh tâm của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc, bản chất sai lầm trong cơ chế độc tài đang thống trị Việt Nam và chọn lựa dứt khoát đứng về phía dân tộc. Thấy được con đường dân tộc phải đi và dâng hiến tình yêu cho đất nước không bao giờ quá trễ. Không ai chiêu hồi ai. Không ai tha tội ai. Không ai sách động ai. Hành trang là tinh thần độc lập, tự chủ của tổ tiên giòng giống Việt. Chọn lựa của thời đại không chỉ là chọn lựa giữa dân chủ hay độc tài nhưng quan trọng hơn thế nữa, là mất hay còn, tồn tại hay diệt vong của một dân tộc.
Từ vùng Balkans cho đến châu Phi, lịch sử nhân loại để lại vô số bài học, chỉ vì giới lãnh đạo sai lầm và thiển cận, chỉ vì dân tộc chia rẽ và phân hóa mà nhiều quốc gia, vương quốc, đế quốc, một thời hưng thịnh đã vĩnh viễn bị xóa tên. Tất cả sẽ trở thành vô nghĩa khi Việt Nam không còn có mặt trên bản đồ thế giới. Nhạc sĩ Việt Khang đặt ra một câu hỏi nhức nhối không phải cho bộ máy công an đang giam cầm em, cho lãnh đạo đảng Cộng Sản mà cho toàn dân tộc “Cội nguồn ở đâu, khi thế giới nay đã không còn Việt Nam?”.
Chỉ cần một ngọn gió sẻ thổi bùng ngọn lửa đấu tranh cho dân tộc Việt!
Vì thế dù có bài học, tấm gương gì cũng bằng thừa. Chẳng có tác dụng gì cả.
Bây giờ chỉ còn cách người dân tỉnh ngộ đứng lên lật đổ chế độ thì may ra còn con đường sống cho dân tộc.
Thôi xin đi vào vấn đề chính vậy.Chiến tranh là cái mà nhiều nhà đã nói.Hình như ,hihi,Frot đã từng nói ,chủ yếu là giải quyết nạn nhân mãn.Khi mà của cải có hạn chỉ tăng theo cấp số cộng mà loài người lại tăng theo cấp số nhân thì chỉ có chiến tranh mới giải quyết nổi bài toán hắc búa đó.Hitle còn đi sâu hơn ,chỉ nên để lại những nòi giống ưu việt,chẳng hạn như dân tộc Giecmanh thống trị thế giới.
Túm lại tất cả các chủ thuyết từ nhân ái đến phát xít man rợ đều lấy lọc lừa làm chính trị để giải quyết từ khéo léo mỵ dân đến tàn nhẫn kiểu Pôn pốt.Nếu như các thế kỷ trước còn ngờ nghệch thì thế kỷ này đã tinh vi ,khôn ngoan hẳn.Tất cả các chủ nghĩa ,tôn giáo đều "vì dân" nhưng thực sự lại là "do dân".Chỉ khác nhau ở chỗ hành xử ,hoặc thịt dân ngay ,hoặc nuôi cho béo rồi mới làm thịt.Thử hỏi ai làm ra của cải?Dân! Ai bị đóng thuế ?Dân! Ai bị lừa ?Dân!
Tàu hay Việt đều giành nhau quyền bóc lột dân mà thôi.Bây giờ chế độ Tàu hay Việt đều giống nhau như khuôn đúc.
Chỉ ớ các nước tư bản thì chế độ tốt hơn?không hẳn!Cũng có nhiều kẻ khố rách áo ôm!
Nói như vậy thì quả không còn phân biệt tốt xấu nữa?
Thực ra trong những cái xấu ta chỉ có thể chọn cái xấu ít hơn mà thôi.Cái xấu ít đó tạm gọi là tiến bộ ,tương đối tốt mà thôi.
Những năm bao cấp ăn bo bo ta mơ về những ngày đổi mới hiện nay .Nhưng khi ta đã và đang có cái đổi mới hiện nay thì ta lại mơ cao hơn.Hihi,kiểu bà lão đánh cá và con cá vàng!Hãy tỉnh táo và kiên nhẫn.Lịch sử chọn ta chứ ta không thể chọn lịch sử.Cái gì bị ức chế mãi sẽ đột phá ,như kiểu nắng lắm ắt mưa nhiều.Gadafi của Lybi là 1 ví dụ.Hòa bình mãi sẽ có chiến tranh như kiểu tam quốc hợp rồi ắt tan.
Tôi tin chắc cái ngày mưa bão ấy sắp đến rồi.Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết chẹt chứ đừng mơ là ta sẽ sung sướng hơn.
Vô "Gú gồ chấm tiên lãng" mà cũng không đoán ra dân tộc Giecmanh là dân tộc nào? Có lẽ từ sách nhi đồng thời Liên Sô chăng? Hay vẫn là lối viết riêng từ chính sách văn hóa giáo dục cũa những "đỉnh cao trí tuệ cũa loài người"!
John à Paris
Khen DLB như vậy đó. Vì vậy, không ai tin là DLB sẽ kiểm duyệt bài này.
" Những chờ đợi mỏi mòn, những van xin tha thiết, những thỉnh nguyện thư trang trải hết ruột gan đều không mềm lòng những kẻ mà tham vọng quyền lực và quyền lợi đã thấm vào máu, ăn sâu vào xương tủy. "
" Chọn lựa của thời đại không chỉ là chọn lựa giữa dân chủ hay độc tài nhưng quan trọng hơn thế nữa, là mất hay còn, tồn tại hay diệt vong của một dân tộc. "
Thế nhưng thay vì quan tâm đến vận mạng dân tộc , sau khi chiến tranh kết thúc 37 năm vẫn có những kẻ những kẻ cầm bút chuyên nghiệp lưu manh ; khôn lỏi ; mang những hình ảnh đau thương của dân tộc kićh động hận thù , phân biệt cục bộ địa phương , phân biệt Bắc Nam ; bênh vực cho hào quang giả taọ mù quáng mà hồ và đảng nhồi nhét vào đầu để vào miền Nam chém giết anh em ......
Những hạng người như thế thực chất là những kẻ ăn mày dĩ vãng và caí dĩ vãng " quang vinh " đó không gì khác hơn là cốt nhục tương tàn để phục vụ cho mục đích tối hậu của Tàu : tiêu diệt Việt Nam
Tác giả có nói: “giới lãnh đạo CS Trung Quốc biết chế độ CS như người đi trên dây, ngồi trên lưỡi dao cạo.” Theo ý kiến riêng của mình thì nếu TQ tự thấy không đủ lực thì sẽ không dám ép VN quá đâu. Sự phản kháng mạnh của VN, sẽ gây không ít tổn thất cho TQ. Chưa kể nếu chế độ CS ở VN sụp đổ thì cũng sẽ ảnh hưởng tới TQ. Nếu mối quan hệ giưa 2 Đảng CS là tốt đẹp thì TQ chỉ cần ngọt ngào đề nghị được mua tài nguyên VN với giá hữu nghị là ổn. Vậy tại sao TQ vẫn ép VN? Phải chăng TQ đã đủ mạnh để có thể tự tin đối phó với các cường quốc, nhất là Mĩ. VN hiện nay có lẽ chỉ là một con cờ trong tay hai quốc gia này.
TB: Mình thắc mắc sao một nhà báo lại có thể để sai lỗi chính tả ở những từ rất phổ biến như: nỗi tiếng, ngòi nỗ. Đây chắc chắn không phải là lỗi do đánh máy.
Thực chất đcsvn đã bán nước ta cho TQ từ lâu rồi.
Dân tộc VN không phải là con cờ của ai hết và cũng sẽ không để cho bất cứ ai lợi dụng mình. VN gia nhập thế giới dân chủ để dựa vào thế giới dân chủ bảo vệ sự tồn vong của chính VN chứ không phải vì sự tồn vong của bất cứ ai khác.
Có lẻ vì người Nam viết sai nhiều nên người Bắc giận, đem quân vô trị tội, đánh cho tơi bời, xáp nhập miền Nam vào thiên đàng XHCN, cho miền Nam biết thế nào là đói khổ. Không biết CS miền Bắc bây giờ đã bớt giận chưa? Tôi thấy còn bắt lỗi, nên sợ mấy ông đem quân vô đánh một lần nữa!
nguýt"nhau kia chứ!)
sai thì sữa đổi , ĐÃ CẦM LÁI PHẢI LÁI CON THUYỀN VIỆT NAM TỚI ĐÚNG HƯỚNG AN VUI TỰ DO DÂN CHỦ HÙNG CƯỜNG ẤM NO HẠNH CHỦ trong đó có mình được tự hào được tự do anvui hạnh phúc
Xin hẹn một ngày khác
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ "bị" đánh tơi bời
Xin gởi đến các bạn link “Hào khí Việt Nam” để tăng thêm sỹ khí trước khi ra đòn quyết định chế độ côgn sản này. Rất hay, xin các bạn hãy vô youtube để xem nhé.
http://www.youtube.com/watch?v=4t4-aQCy25I
Phản hồi của bạn bị Blogspot cho vào spam. Sau đó bạn gửi thêm nhiều phản hồi vào nhiều bài khác nhau nên lại càng bị xếp vào spam. Dân Làm Báo không thể túc trực quan sát phản hồi hàng phút hàng giờ, thỉnh thoảng mới vào để kéo những phản hồi không phải là spam trở lại. Bạn tự do phán xét về DLB và kết luận là do mỗi bạn đọc.
1.Nga và TQ là 2 nước lớn, có truyền thống trong quá khứ mở rộng lãnh thổ của mình bằng chiến tranh, dù là cộng sản hay không cộng sản.
2.TQ đã, đang và sẽ xâm lược và chiếm đọat trái phép lãnh thổ của hầu hết các nước láng giềng của mình.
3.Liên xô đã xâm lược Phần lan ngày 30/11/1939.
http://en.wikipedia.org/wiki/Winter_War
4.Liên xô đã xâm lược Ba lan 17/09/1939.
http://en.wikipedia.org/wiki/Invasion_of_Poland
5.Mùa thu 1939 hồng quân Liên xô đã xâm lược Litva, Estonia và Latvia. 1940 Liên xô sát nhập 3 nước Baltic này vào CHLB Xô viết.
http://en.wikipedia.org/wiki/Lithuania
http://en.wikipedia.org/wiki/Estonia
http://en.wikipedia.org/wiki/Latvia
6.1944 hồng quân Liên xô lại xâm lược 3 nước này lần thứ 2.
7.Nhân dân các nước đông Âu đã chưa bao giờ chọn CNCS làm đường lối phát triển của họ, mà họ bị CHLB Xô viết áp đặt CNCS lên đầu họ sau đệ nhị thế chiến.
8. Không có khối NATO có lẽ tây Âu đã là thuộc địa của Liên xô như 14 nước cộng hòa trong liên bang Xô viết từ lâu rồi.
9.Không có Mỹ có lẽ Nhật, nam Hàn, Đài loan thuộc về cộng hòa nhân dân Trung hoa từ lâu rồi.
10.Đcstq và đcsvn đã từ bỏ hẳn CNCS và CNXH từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Thực chất của "Định hướng XHCN" chỉ là CNTB hoang dã và chỉ mượn cái tên "XHCN" để mị dân mà thôi. ĐCS chỉ là cái áo khóac của bè lũ bán nước, độc tài, mafia, lưu manh côn đồ, phong kiến hiện đại mà thôi.
11.Dân tộc VN không còn sự lựa chọn nào khác là gia nhập thế giới dân chủ đứng đầu là Mỹ và EU, cùng với thế giới dân chủ bảo vệ nền độc lập của mình như Thổ nhĩ kỳ và hàng chục nước nhỏ tại châu Âu chống các nước lớn bành trướng, xâm lược.
12.VN gia nhập vào thế giới dân chủ là vì quyền lợi và sự tồn vong của chính dân tộc mình chứ không phải là sự tồn vong của thế giới dân chủ. VN có tồn tại trên bản đồ thế giới hay không tồn tại thì thế giới dân chủ vẫn tiếp tục tồn tại.
13. Muốn chống bè lũ cướp nước trước hết phải lật đổ bè lũ độc tài, phản động bán nước. Không có 1 thể chế dân chủ thì không thể có độc lập, tách rời dân chủ với độc lập là 1 điều không tưởng.
14.Nếu không có 1 thể chế dân chủ và không nhanh chóng gia nhập thế giới dân chủ VN sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa, trong 1 ngày không xa.
Xin chân thành cảm ơn tác giả Trần Trung Đạo.
Xin mời tất cả bạn đọc của Dân làm báo góp ý cho tôi, kể cả những quan điểm trái ngược của các đảng viên đcsvn, các đồng chí an ninh mạng thuộc bộ công an và tổng cục 2, các hồng vệ binh còn đảng còn tiền.
Làm sao mà bẫy hết được anh em yêu nước, những 87 triệu người cơ mà, bác đừng lo.
Tổng cục 2 vẫn thường ngậm máu phun người như Việt tân, khối 8406, Trần Khải Thanh Thủy... cộng tác với họ, nghe cứ như là tin Lý Tống làm đơn xin gia nhập đcsvn ấy, hài không chịu được. Blog Dân làm báo là cộng sản? Hêhêhê, bác làm tôi bật cười rồi đấy.
Bác nên tôn trọng quyết định của admin, tôi cũng thường bị xóa còm (ở blog khác) nhưng tôi không bao giờ phàn nàn lấy 1 câu, admin biết rõ họ cần phải làm gì để có nhiều bạn đọc hơn.
Đêm khuya tình cờ lỡ lạc vào trang mạng trường Đại học Phạm Văn Đồng ....
=========================================
http://www.pdu.edu.vn/nss.php?name=Infor&id=35
Quảng Ngãi có Học đại Phạm Văn Đồng !
Thế mà Giới trẻ ghi danh học rất đông
Anh Tô tầm nhìn sao gớm thế !
Chắc nghe Hồ dạy Hòang Sa là số không ?
« Đảo nhỏ phân chim đâu đáng kể !
Chú cứ nghe bác ...nhường ngay cả hết Biển Đông
Nước VỆ thuộc nước TỀ xưa nay vẫn thế ! ... »
- « Thưa bác ký liền Công hàm đâu tiếc công ! »
TRIỆU LƯƠNG DÂN
.....xuyên qua sự lãnh đạo của đảng cộng sản
Có thể nói thời đại nào cũng có kẻ thù của nhân loại , nếu như xưa loài người có Tần Thủy Hoàng bạo chúa thì sau này loại người lại có nào là hitler , nào là Lê Nin nào là Mao Trạch Đông ..........và vào thời hiện tại và tương lai những nhân vật như thế cũng lại xuất hiện !!!
Vì chủ nghĩa phong kiến không còn nên những kẻ thù của nhân loại cũng thay đổi theo chiều hướng của thời đại qua hình thức nhóm người hoặc đảng phái
Nếu như Syria có kẻ thù dân tộc là tổng thống assad thì người Tây Tạng người Duy NGô Nhĩ tại Trung Quốc có kẻ thù dân tộc là Đảng Cộng Sản
Đó cũng là quy luật tự nhiên trên thế gian này !~!!
Ác và thiện !!!
Cho nên chúng ta không thể nào mong muốn hoặc xây dựng một thế giới thánh thiện được , do vậy mà đã trãi qua bao nhiêu ngàn năm đã có biết bao nhiêu cái ác bị cái thiện diệt trừ nhưng ác vẫn còn để thống trị nhân loại đấy sao !!!?
Từ Quy Luật đó nên Nước vẫn còn tồn tại và lửa không bị mất đi !!!
nếu gọi Nước là Thiện thì Lửa được gọi là Ác
Lửa luôn muốn làm cho nước bị bốc hơi biến mất khỏi thế gian này nhưng Nước cũng phải biết tự mình chuyển hóa thành mây để trở thành những cơn mưa dập tắt lại lữa !!!
Do biết cách Sinh Tồn nên lửa và nước vẫn còn mãi với thới gian !!!
- Chúng thuộc loại đỉnh cao trí tuệ cỡ "gúc gồ chấm cơm", hậu quả của đi lên bằng khom lưng, quỳ gối, mua bán chức tước mà ra
- Tất cả bọn chúng đều tham tiền và quyền nên sẵn sàng bán đứng cả dân tộc, bắt tay với giặc để bảo vệ ngai vàng
Từ đứa trẻ nhỏ cũng biết TQ không bao giờ muốn dân tộc VN lớn mạnh nên đã tìm mọi cách phá hoại VN (phá hoại đoàn kết, phá hoại kinh tế, phá hoại thể lực của cả dân tộc. TQ cũng không bao giờ từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa. Nhưng bắt tay với giặc/TQ thì còn đảng, bắt tay với Mỹ thì đảng mất ghế thống trị, tức là quan chức hết cướp phá tài nguyên, bóc lột dân lành công khai như hiện nay. Chính vì thế mà đảng cam tâm nhận giặc làm cha, tiếp tay cho TQ ức hiếp dân ta
Chúng nhân danh đảng thà bán nước chứ không muốn mất ghế. Quyền lợi của nhân dân và Tổ quốc đang bị xếp sau quyền lợi các cá nhân lãnh đạo đảng hiện nay
phục!