24 tháng 2, 2012

Con Sán Lải – Chu Chi Nam


Con Sán Lải – Chu Chi Nam


Bài đọc suy gẫm: Con Sán Lải -  Dựa vào lịch sử, tác giả Chu Chi Nam đã đưa ra nhận định, phân tách sâu sắc về những lúng túng và ứng xử vụng về của đảng cộng sản Trung Quốc từ xưa tới nay nơi mặt ý thức hệ. Ghi chú:  Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa.
VÌ KHÔNG DỰA TRÊN MỘT NỀN TẢNG TRIẾT LÝ VỮNG CHẮC, CHÍNH QUYỀN TRUNG CỘNG KHÔNG THỂ CÓ MỘT ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ, NGOẠI GIAO HỢP LÝ, HỢP THỜI VÀ ĐÁNG TIN CẬY
Một nhà tư tưởng đã nói : «  Tất cả đến từ triết lý. » Câu này đúng không những đúng cho mỗi cá nhân con người, mà đúng cho cả chính quyền của một quốc gia dân tộc.
Thật vậy, một người có một triết lý sống vững chắc, thì lúc đó họ mới có thể suy nghĩ, hướng dẫn hành động của mình phù hợp với triết lý sống đó. Họ mới trở thành hợp lý với chính mình, hợp lý với những người chung quanh và mới có thể gây được niềm tin : Niềm tin tự chính bản thân và niềm tin đến từ người chung quanh.

Đối với chính quyền của một quốc gia, dân tộc, nếu không có một triết sáng tỏ, rõ ràng, vững chắc, thì họ không thể hành động hợp lý, minh bạch rõ ràng, tất nhiên không thể gây được niềm tin cho chính dân họ, mà còn không gây được niềm tin với những nước, dân tộc khác.
Chính vì vậy mà có một nhà nghiên cứu về chính trị ngoại giao của Á châu, đặc biệt là của Trung cộng có viết :
«  Chừng nào chính quyền Trung cộng không dựa trên một nền tảng triết học vững vàng, hợp lý, sáng tỏ, thì đường lối chính trị, ngoại giao của Trung cộng không hợp thời và đáng tin cậy. «
Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề trên.

Triết lý, triết học là gì
Triết học là môn học nghiên cứu về vũ trụ và đời sống của vạn vật.
Triết lý là lý luận sâu xa, tất yếu phải có của mọi sự vật, mọi nguyên tắc, mọi lý do trên đời.
Theo Tây phương, chữ  « philosophie « gồm 2 chữ: “ philo “ là yêu thích « ; «  sophie « là sự khéo léo, khôn ngoan, biết cách sống, cách cư xử ( la sagesse) ; còn có nghĩa là sự hiểu biết ( le savoir ).
Nhà triết học ( le philosophe) là người có sự khôn ngoan, khéo léo, hiểu biết, có cái nhìn cao thượng và khóang đạt ( de hauteur de l’âme et de détachement ) ; là người thích suy nghĩ, luôn đặt những câu hỏi về con người, về vũ trụ và về cuộc sống.
Không cần đi sâu vào sách vở, những ai, vào tuổi đời đã quá nửa đời người, chúng ta hãy suy ngẫm bản thân chúng ta, xét người, xét việc chung quanh, theo như Khổng Tử nói : «  Tận kỳ tâm, tri kỳ tính, ắt tri thiên «  ( Suy nghĩ cái tâm của chính mình, thì sẽ biết tính mình và tất biết việc trời đất ), chúng nhận thấy rằng : những ai có một triết lý sống vững vàng, sáng tỏ, thì họ biết rõ họ muốn cái gì, làm cái gì, và điều họ muốn, họ làm có đúng hay không. Từ đó họ ung dung tự tại, tự tin, không mâu thuẫn với chính mình, hành xử khéo léo, hợp tình, hợp lý, gây được niềm tin đối với người.
Trái lại, người nào không có một triết lý sống vững vàng, nay thế này, mai thế khác, không biết rõ mình muốn gì, làm cái gì, đầy mâu thuẫn, không tự tin với chính mình, tất nhiên từ đó, không thể gây niềm tin với người.
Điều này không những đúng với cá nhân mà còn đúng với cả một chính quyền.
Một chính quyền hành động mà không dựa trên một nền tảng triết lý rõ ràng, không biết mình muốn cái gì, hành động cái gì, và điều mình muốn, mình hành động có đúng hay không, từ đó đi đến chỗ không gây được niềm tin trong dân, tất nhiên không thể có sự hỗ trợ của dân, và tất nhiên không thể nào có được một đường lối ngoại giao được sự tín nhiệm của những nước khác.
Từ điểm này, chúng ta xét chính quyền Trung cộng, hay nói đúng hơn Đảng Cộng sản, từ ngày thành lập cho tới ngày hôm nay.  
 Từ những sản phẩm độc hại bị tẩy chay cho đến thay đổi nhãn hiệu sang “Made in RPC” (Made in People’s  Republic of China)
1 ) Từ năm 1921 tới năm 1949
Đảng Cộng sản Tàu được thành lập năm 1921, tại Thượng Hải. Hai người quan trọng, mặc dầu buổi họp thành lập ban đầu vắng mặt, nhưng được mọi người tôn lên làm Chủ tịch và Phó Chủ tịch là Trần độc Tú ( Chen Duxiu) và Lý đại Siêu ( Li Daizhao).
Trần độc Tú ( 1879 – 1942) : Người theo Tây học, Pháp học thì đúng hơn ngay từ lúc đầu. Con một vi đại quan quân sự vùng Mãn châu. Sau khi bố chết thì được ông nội nuôi nấng. Sau đó tới Hàng châu học nghề đóng tàu và dạy tiếng Pháp. Ông hoạt động chính trị cách mạng từ thời thanh niên. Sau phải trốn sang Nhật ( từ năm 1900 tới 1902), tại đây ông có học trường Sư phạm và đại hoc Wesada. Trở về nước năm 1903, ông dạy học ở một trường cao đẳng ở tỉnh An Huy. Từ năm 1907 tới 1910, người ta mất dấu tín về ông. Có giả thuyết cho rằng ông sang Pháp học đóng tàu. Ông không theo Tôn dật Tiên, vì ông chỉ trích chính sách bài người Mãn châu của ông này. Sau Cách mạng Tân Hợi 1911, ông đặc trách về giáo dục của tỉnh An Huy. Năm 1915, ông thành lập tờ báo Thanh Niên, có ảnh hưởng rất mạnh trong giới trí thức và sinh viên học sinh lúc bấy giờ. Tờ báo này có phụ đề bằng tiếng Pháp ( La Jeunesse), điều này chứng tỏ ông hoàn toàn theo tư tưởng Tây phương, chống lại tư tưởng của Khổng, theo như nội dung tờ báo, và có Pháp học.
Ông đóng một vai trò quan trọng trong Phong trào Sinh viên, học sinh biểu tình vào ngày 4/5/1919. Hai năm sau, Đảng cộng sản được thành lập (1921), ông được bầu làm chủ tịch.
Sau cuộc nổi dậy của cộng sản ở Thượng Hải bị thất bại vào năm 1927 bởi sự đàn áp của Tưởng giới Thạnh. Ông bị chỉ trích trong đảng và mất chức Chủ tịch, ít lâu sau bị trục xuất ra khỏi Đảng, sau đó ông theo Đệ Tứ quốc tế Cộng sản của Trotski, bị Tưởng bắt và chết năm 1942.
Lý đại Siêu (Li Daizhao), cũng là người theo Tây học. Sau đó ông nghiên cứu về chủ nghĩa Marx. Ông làm quản thủ thư viện Đại học Bắc kinh, là cha vợ (đầu ) của Mao và đã đưa Mao vào làm việc chung với mình.
Câu nói nổi tiếng của ông : « Ở những nước bị trị, đấu tranh giai cấp đồng nghĩa với đấu tranh giành độc lập « .
Phải công nhận rằng từ năm 1921 tới 1949, Đảng Cộng sản Tàu dựa rõ ràng trên lý thuyết Mác Lê Staline. Những người như Trần độc Tú, Lý đại Siêu và ngay cả Mao lúc đầu đều tin tưởng cuồng nhiệt lý thuyết trên. Tiếc rằng lý thuyết này chỉ là một cái gì cặn bã của nền văn hóa Tây phương. Ông Domenach, một nhà rất am tường về lịch sử, văn hóa, triết học Tàu, có nói rằng những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Tàu không đủ trình độ để thấu hiểu cái hay cái dở của văn hóa Tây phương, cũng như cái hay cái dở của văn hóa Đông phương, đã chối bỏ tất cả những cái hay của văn hóa Đông phương, vội vã nhập cảng cái cặn bã của văn hóa Tây phương là chủ nghĩa Mác. Giới trí thức Tây phương họ đã ý thức điều này, như ông Pierre Joseph Proudhon, người đã từng bút chiến với Marx, đã nói : «  Chủ nghĩa của Marx, nếu được áp dụng, thì nó trở thành con sán lãi của xã hội. » Sau gần 100 năm thực hiện, chúng ta thấy lời nói trên quả là đúng, vì ở bất cứ xã hội cộng sản nào cũng bị mắc vào nạn tham nhũng hối lộ. Thêm vào đó, đảng cộng sản quả là con sán lãi, là một chính quyền thứ nhì, ăn lương và bổng lộc hơn cả chính quyền chính thức, mà lương và bổng lộc đó là đến từ thuế, lấy từ dân.
Ở đây tôi không thể đi sâu vào việc phê bình chủ nghĩa Marx Lénine Staline.
Ngay cả tập tài liệu mang tựa đề  «  Le Matérialisme dialectique et le Matérialisme historique «  ( Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật sử quan ), được Staline viết vào tháng 9 năm 1938 và được những người cộng sản coi như Kinh Thánh, điển hình là nếu ai theo dõi lịch sử và hình ảnh của Đảng cộng sản Tàu, thì đều thấy hình ảnh Mao ngồi trước nhà, ở trụ sở vùng Diên An, cầm tập tài liệu mang tên tiếng Pháp này.
Nhiều người cho rằng đây là một tập tài liệu mang tính chất khoa học, nhưng thực tế chẳng khoa học một chút gì, chỉ là những cái phủ nhận và xác nhận vô căn cứ ( affirmation gratuite). Có dịp tôi sẽ phê bình rõ tập tài liệu này. Ở đây tôi chỉ đưa ra một vài dẫn chứng.
Như Staline viết :
«  Contraire à la métaphysique, la dialectique regarde la nature non comme état de repos et d’immobilisme, de stagnation et d’immuabibité, mais comme un état de mouvement et de changement perpétuels, de renouvellement et de développement incessants, où toujours quelque chose nait et se développe, quelque chose se désagrère et disparaît «  J. Staline – Les Questions du Lénisme – trang 787 – Nhà xuất bản Norman Béthume – Paris 1969).
( Trái với siêu hình, biện chứng pháp nhìn vạn vật không ở trạng thái tĩnh và bất động, mà như một trạng thái động và phát triển không ngừng, nơi đó lúc nào cũng có một cái gì đó sinh ra và phát triển, cái gì đó tan rã và biến mất.)
Nguyên ở đây Staline dùng chữ siêu hình để chỉ tất cả những triết lý, triết học khác với triết học duy vật biện chứng là cách vơ đũa cả nắm ; và có chắc rằng những triết học đó nhìn thế giới trong một trạng thái tĩnh hay không. Điều này chưa chứng minh mà đã quyết đoán ( affirmation gratuite ). Quyển sách của Staline có giá trị tuyên truyền, quảng cáo như quảng cáo dầu cù là, «  Hàng tôi tốt nhất, tất cả hàng khác đều dở. Mại vô !  Triết lý duy vật biện chứng và duy vật sử quan là hay nhất. Tất cả triết lý khác là bỏ đi. Hãy theo chúng tôi ! « ,  hơn là một quyển có giá trị về khoa học và triết học.
Và còn nhiều đoạn văn tư tưởng khác mang cùng một lỗi này.
Theo khoa học, để kết luận một vấn đề, thì phải có đủ nguyên nhân ắt có và đủ, đây mới có nguyên nhân ắt có, thế mà Staline đã vội kết luận. Không có một tý gì là khoa học, tuy nhiên vẫn nghĩ mình là khoa học.
Trở về với Đảng Cộng sản Tàu, là trong thời gian đấu tranh cướp chính quyền, đảng này đã dựa rõ ràng, minh bạch, trên một lý thuyết chính trị, trái sai chưa cần nói tới.
2)  Từ năm 1949 đến 1963
Thời gian đầu nắm chính quyền tới lúc tranh chấp Nga – Hoa bùng nổ. Trong thời gian này triết lý chính trị lúc ban đầu đã bắt đầu đi trật hướng.
Trật hướng ở chỗ không còn «  Tình huynh đệ cộng sản «  nữa, trong việc Trung cộng gửi quân sang chiếm Tây Tạng và việc tranh chấp Nga – Hoa.
Trung cộng tố cáo Liên Sô là đi theo chủ nghĩa xét lại ( révisionnisme), không theo chủ nghĩa chính thống của Marx. Nhưng xét cho cùng thì cả 2 nước, từ thời Lénine đã đi theo chủ nghĩa xét lại. Theo Marx thì cách mạng cộng sản chỉ có thể xẩy ra ở những nước có một nền kỹ nghệ phát triển cao, vì chỉ ở nơi đây mới có giai cấp vô sản. Trong khi đó thì Lénine làm cách mạng cộng sản trong một nước nửa kỹ nghệ, nửa canh nông. Mao làm cách mạng cộng sản ở một nước hoàn toàn canh nông. Nhất là chiến lược «  Lấy nông thôn bao vây thành thị «  của Mao là dựa vào nông dân để làm cách mạng, hoàn toàn trái với Marx.
Trên phương diện tranh luận lý thuyết, Đảng Cộng sản Tàu đã gửi một Phái đoàn hùng hậu, dẫn đầu bởi Đặng tiểu Bình, Thư Ký thứ nhất của Đảng, gồm có Lưu thiếu Kỳ, Chủ tịch nhà nước, Chu ân Lai, Thủ tướng chánh phủ, sang Moscou, vào tháng 10 năm 1963, để tranh luận với Liên Sô, trong kỳ họp Đại hội Đảng của nước này. Những luận điệu do Đặng tiểu Bình đưa ra, và về sau ông thường nhắc lại, đó là «  Chỉ có chân lý thật khi nào được kiểm chứng bởi thực tế, thực tiễn. » Đây chỉ là quan điểm của chủ nghĩa duy thực tế, duy kinh nghiệm hạ cấp. Về khoa học ai cũng biết nếu lấy con mắt bình thường làm sao chúng ta có thể thấy được vi trùng hay các hành tinh cách trái đất cả tỷ cây số. Vì vậy chủ nghĩa duy kinh nghiệm, duy trực giác thật là hạn chế. Chính Tôn Tử của người Tàu đã nói :
«  Cho nên nhắc được cái lông mùa thu, không phải là nhiều sức, trông thấy mặt trời, mặt trăng không phải là sáng mắt, nghe thấy tiếng sấm, tiếng sét không phải là sỏi tai… Cho nên sự thắng của người thiện chiến không có tiếng khôn ngoan, không có cái công mạnh mẽ » ( Tôn Ngô Binh pháp – Ngô văn Triện dịch – trang 74+75).
Có những chân lý không kiểm chứng được bằng thực tế, thực tiễn. Như chân lý toán học, một khoa học có tính khoa học nhất trong những khoa học, mà cuối đời Marx công nhận và bỏ công ra nghiên cứu.
Thật vậy, chúng ta lấy một phương trình : f(x) = 2x. Phương trình này, chân lý này đúng với bất cứ giá trị nào của X, đi từ cực tiểu tới cực đại. Trên đời này không có con số nào nói lên được cực tiểu và cực đại. Cũng như trong hình học, vòng tròn được định nhĩa là tổng số những điểm cách đều một điểm cố định là trung tâm. Ở trên đời này không có một cái vòng tròn nào mà có thể kiểm chứng, kiểm nghiệm được với định nghĩa trên, vì vòng tròn nào, nếu tính theo sai số cao nhất, cũng là «  méo «  so với định nghĩa trên.
Cũng như câu nói cũng của họ Đặng : «  Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa « , mà Trung cộng và Cộng sản Việt Nam ngày hôm nay thường nhắc tới.
Câu này mâu thuẫn, vì kinh tế thị trường là kinh tế tự do, tư nhân, không bị chỉ huy, không thuộc về nhà nước. Còn kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là kinh tế quốc doanh, không có tự do và do nhà nước chủ động.
3)  Từ năm 1963 tới năm 1972
Đây là khoảng thời gian có những biến cố quan trọng về chính trị quốc nội cũng như quốc ngoại. Đó là Cách mạng Hồng Vệ Binh, tranh chấp Nga – Hoa tới mức cao điểm và việc Trung cộng bắt tay với Mỹ.
Cách mạng Hồng vệ binh có mang một phần triết lý ý thức hệ, đó là chủ trương cách mạng cộng sản triệt để và đấu tranh giai cấp đến cùng, mà sự thể hiện của nó sau này rõ ràng nhất là cuộc diệt chủng của tập đoàn Pol Pot, đã giết hơn 2 triệu dân trên tổng số hơn 5 triệu dân Căm bốt. Nhưng lý do chính của cuộc cách mạng này là cuộc tranh giành quyền hành giữa phe Mao trạch Đông và phe Lưu thiếu Kỳ, Đặng tiểu Bình và Chu ân Lai.
Ai cũng biết kế hoặch Đại Nhảy vọt, chủ trương bởi Mao, vào cuối những năm 50, đầu thập niên 60, bị thất bại. Thực tế Mao bị loại bỏ  ra ngoài quyền hành. Quyền hành ở Tàu lúc bấy giờ thuộc về bộ ba Lưu – Đặng – Chu. Sau đó Mao dùng chiến lược «  Hạ tầng ép thượng tầng « . Hạ tầng đây là sinh viên học sinh với sự yểm trợ của quân đội. Đó là ý nghĩa chính của cuộc cách mạng Hồng vệ binh. Nhưng cuộc cách mạng này đã đi quá lố, chính Mao về sau cũng không thể chấp nhận. Những sinh viên học sinh theo cách mạng đã hành xử như kiểu Soljennytsine nói : «  Cộng sản là những người đến từ một hành tinh khác với mục đích duy nhất là phá hủy tất, chém giết tất những cái gì thuộc về hành tinh con người « .
Về ngoại giao, 2 sự kiện nổi bật của thời gian này, đó là cuộc tranh chấp Nga Hoa đi đến cao điểm, có lúc người ta nghĩ có cuộc chiến tranh lớn giữa Liên Sô và Trung cộng. Lợi dụng tình thế, Hoa kỳ đã nhảy vào, khai thác sự chia rẽ này, đi đến việc bắt tay giữa Trung cộng và Hoa Kỳ năm 1972.
Cuộc gặp gỡ này có rất nhiều nguyên do, nhưng trong đó có 2 nguyên do chính :
Thứ nhất, cả 2 nước Liên Sô và Trung cộng, mặc dầu nói đến «  Tình huynh đệ cộng sản «  , nhưng trên thực tế cả 2 nước đều là đế quốc, nước nào cũng muốn làm chủ phong trào cộng sản quốc tế. Vì vậy đi đến tranh chấp và nước nào cũng ngụy biện, tố cáo nước kia là theo chủ nghĩa xét lại. Nhưng cả 2 đều xét lại tư tưởng của Marx từ lâu.
Lý do thứ 2, đó là đến từ đầu óc giản tiện ( simpliste), nếu không nói là suy nghĩ một chiều, không suy đi, tính lại của giới lãnh đạo cộng sản Tàu, bắt đầu từ Mao, cho tới ngày hôm nay. Thú dụ điển hình : Mao nghĩ rằng chim chóc phá hoại mùa màng, nay phát động phong trào giết chim, bắt dân già trẻ lớn bé phải đi giết chim. Hậu quả, chim không còn, sâu bọ sinh sản, phá hoại mùa màng. Mao đơn giản nghĩ rằng một nước kỹ nghệ là một nước có tổng sản lượng sản xuất sắt thép cao, bắt mọi gia đình phải làm lò luyện thép, ngay cả lò luyện bỏ túi « nhỏ, mang nồi niêu xong chảo nấu chảy thành sắt. Sau đó sắt thép luyện ra thiếu phẩm chất, nay làm lại nồi niêu xong chảo cũng không xong. Vận động dân làm những việc vô bổ. Cũng như Mao đơn giản nghĩ rằng một cường quốc phải là một quốc gia có bom nguyên tử. Đây là một trong những lý do đưa đến tranh chấp Nga – Hoa, vì Nga không chịu giúp Trung cộng làm bom nguyên tử. Lợi dụng tình thế này, một cách gián tiếp, theo như một giả thuyết, Hoa Kỳ nhảy vào giúp Trung cộng làm bom nguyên tử, bằng cách để cho 2 nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ, gốc Tàu, trốn về Trung Cộng.
Nhiều người hoan hô tinh thần thực tế của Trung cộng trong việc bắt tay với Hoa Kỳ. Tôi không chối cãi. Nhưng theo tôi, trên nguyên tắc triết lý căn bản, triết lý chính trị, thì có điều sai trái. Đó là, về ngoại giao, trước đó thì Trung cộng chửi Hoa Kỳ với tất cả mọi ngôn từ, nào là «  Hoa Kỳ, thế giới của sự bóc lột, của tội ác « , nào là « Hoa kỳ, con hổ giấy « , nay một sớm một chiều đổi giọng, làm như vậy không những dân không biết tin vào đâu, mà ngay cả những quốc gia trên thế giới cũng nghi ngờ chính quyền Trung cộng. Hành động đó, trên thực tế có nghĩa là từ bỏ triết học duy vật biện chứng, duy vật sử quan, mặc dầu ngay cho tới ngày hôm nay giới lãnh đạo Trung cộng vẫn hô hào là trung thành với « triết lý nền tảng này ».
4)   Từ  năm  1972 tới ngày hôm nay
Từ năm 1972 cho tới ngày hôm nay, có những biến cố quan trọng, đại để như sau : Mao chết năm 1976, Đặng thực sự nắm quyền năm 1978 và cuộc viếng thăm Hoa kỳ của ông vào cùng năm, chiến tranh biên giới Việt Hoa năm 1979, Biến cố Thiên An môn 1989. Sau đó Trung cộng công nhận cho Pháp Luân Công hoạt động, rồi lại cấm đoán và đàn áp. Ngày hôm nay thì Trung cộng, nửa muốn trở về tư tưởng Khổng Tử, nửa không.
Chúng ta cùng nhau đi vào từ từ, chi tiết của từng biến cố và nêu rõ sự thiếu vắng một nền triết lý căn bản để tựa lên của chính quyền Trung Cộng.
Trước đó, chiến tranh biên giới Nga Hoa, nay chiến tranh biên giới Việt Hoa chứng tỏ những lời nói «  Thế giới đại đồng cộng sản « , «  Tình huynh đệ xã hội chủ nghĩa, môi hở răng lạnh «  chỉ là những danh từ xuông, và chỉ có lợi cho Hoa kỳ. Như chúng ta đã biết, vào lúc này là đang ở thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Trong thời gian này Hoa kỳ dùng chiến lược Be Bờ của Paul Nitzé và Georges Kennan, gồm có 2 thời kỳ : thời kỳ phòng thủ, be bờ và thời kỳ tấn công. Phòng thủ từ cuối Thế Chiến thứ 2 cho tới năm 1972, qua cuộc gặp gỡ Mao Nixon ở Thượng hải. Tấn công từ 1972 tới khi chế độ cộng sản sụp đổ vào năm 1989, khi bức tường Bá linh bị phá vỡ. Có lợi cho Hoa kỳ, vì để tấn công, Hoa kỳ đã dùng chiến tranh tâm lý, mở thêm những đài phát thanh hướng về những nước cộng sản, và đồng thời nói lên cho dân trên thế giới biết rằng ý thức hệ cộng sản, chế độ cộng sản là sai lầm, không mang lại ấm no cho dân, mà chỉ mang lại nghèo đói và bất công ; không mang lại hòa bình, tình huynh đệ cộng sản, mà chỉ mang lại chiến tranh và chết chóc ; không phải môi hở, răng lạnh, mà răng cắn vào môi.
Về biến cố Thiên An Môn, ngày hôm nay chúng ta càng rõ, nhất là với quyển Nhật ký của Triệu tử Dương, đương kim Tổng bí thư đảng lúc bấy giờ. Nếu xét trên bình diện triết lý, ý thức hệ, thì đó là một ý định đặt lại giá trị của triết lý ý thức hệ Mác Lê, chủ trương độc khuynh, chỉ có một ý thức hệ, chủ trương độc đảng, chỉ có một đảng, mà muốn bắt kịp con tàu tiến bộ triết lý ý thức hệ thế giới, chủ trương đa khuynh, đa đảng.
Phong trào Thiên an môn thất bại, không phải là không có sự ủng hộ của dân và thanh niên, học sinh, sinh viên, công chức, mà là vì có sự cấu kết của một số cán bộ chóp bu, thượng tầng, tiêu biểu bới Đặng tiểu Bình, Lý Bằng, Dương thiệu Côn và một nhóm quân đội bảo thủ.
Biến cố Thiên An Môn tại Bắc Kinh năm 1981 – biến cố đánh dấu bước thụt lùi về Tự Do-Dân Chủ tuy nhiên cả thế giới sẽ nhớ mãi hình ảnh người thanh niên anh dũng cản đường xe tăng quân đội.
Theo ông Ruan Ming, người đã từ lâu trong Đoàn Thanh niên Cộng sản, là cộng sự viên đắc lực của Hồ diệu Bang, cựu Tổng bí Thư đảng, người đã từng viết bài diễn văn nổi tiếng cho Đặng tiểu Bình, vào kỳ họp Trung Ương lần thứ 3, của Đại hội thứ 11 của Đảng cộng sản Tàu, vào năm 1978 :
«  Trong cuộc diễn biến của Phong trào dân chủ 1989, tám mươi phần trăm cán bộ trung cấp của Đảng và của Chính quyền đều có cảm tình và ủng hộ Phong trào. Bảy mươi phần trăm Bộ trưởng và Thứ Trưởng cũng ủng hộ. Điều này chứng tỏ rất rõ vào ngày 15 và ngày 18, khi những nhân vật nổi tiếng của mọi tầng lớp bày tỏ công khai lập trường của họ, mong muốn rằng chính quyền công nhận lòng yêu nước của sinh viên, mong muốn chính quyền tiếp tục đối thoại với họ và không dùng phương pháp mạnh. Những người đầu tiên bày tỏ bất đồng trong việc dùng bạo lực quân đội, chính là ba vị Phó Chủ tịch quân sự của Ủy Ban Thường vụ của Quốc hội, cũng như 800 tướng về hưu đã chống đối việc dùng quân đội để đàn áp. » ( Ruan Ming – Deng XiaoPing – Chronique d’un empire : 1978-1990  – trang 258 – nhà xuất bản Philippe Picquier – Paris – 1992).
Cuộc đàn áp đẫm máu Thiên an Môn 1989, một lần nữa chứng tỏ triết lý bảo thủ quân chủ phong kiến rồi quân chủ tập trung tới quân chủ cộng sản, vì chế độ, ý thức hệ cộng sản, chỉ là mặt trái mặt phải của một đồng tiền quân chủ, mà đại diện chỉ là một thiểu số chóp bu, ngày xưa là vua và một thiểu số quan lại bảo thủ, ngày nay là Bộ Chính trị, thiểu số này rất phản động, không nghĩ đến quyền lợi của dân, làm bất cứ việc gì, với bất cứ giá nào, ngay cả giết sinh viên, học sinh, để bảo vệ chức quyền của mình. Chính ở điểm này tôi cho rằng, cho tới ngày hôm nay, mặc dù có sự tăng trưởng, nhưng tương lai nước Tàu vẫn còn bấp bênh. Đúng như lời ông François Mittérand, cự Tổng Thống Pháp, nói vào ngay sau Biến cố Thiên An Môn :
«  Một chính quyền dùng súng bắn vào sinh viên, học sinh, thì chẳng khác nào dùng súng bắn vào tương lai của mình. »
Một biến cố quan trọng trong thời gian từ 1972 cho tới ngày hôm nay, ngay sau biến cố Thiên an môn, là chính quyền Trung cộng cho phép Pháp Luân công hoạt động, sau đó lại cấm và bắt, bỏ tù những người theo triết lý này.
Pháp luân công là một triết lý sống đơn giản, thực tiễn, dựa trên những triết lý, tôn giáo, tư tưởng cổ truyền của Tàu. Theo đó con người phải sống lương thiện, ăn hiền, ở lành, không giết người, làm việc chi hại đến người, không nói dối, lừa gạt. Thêm vào đó, Pháp luân công cho rằng con người là tổng thể, là cái gì hòa hợp nhịp nhàng giữa thể xác và tinh thần. Chính vì vậy họ chủ trương cần phải có tập thể dục, hít thở điều hòa,  «  Một tinh thần tốt đẹp, luơng thiện trong một thân thể khỏe mạnh, quân bình. »
Triết lý này đã được phần lớn dân và cán bộ đảng, nhà nước đi theo. Nhưng chính vì vậy lại đe dọa triết lý Mác Lê Mao, nên chính quyền phải vội cấm đoán, rồi triệt hạ, bỏ tù những ai theo triết lý này, như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Biến cố quan trọng nữa trong thời gian này là Chính quyền Trung cộng quyết định phục hồi tư tưởng Khổng học, đã cho thiết lập cả trăm viện nghiên cứu Khổng học tại trong và ngoài nước.
Tài tử  nổi tiếng của Hồng Kông Châu Nhuận Phát thủ vai Khổng Phu Tử. 
Điều này chứng tỏ rằng đã có những người trong Đảng ý thức rằng ý thức hệ, nền triêt lý Mác Lê Mao đã lỗi thời, phải thay thế bằng một ý thức hệ khác (1). Tuy nhiên cũng có người chống lại, vì ý thức hệ của Khổng Tử có thể nói là hoàn toàn trái ngược lại với ý thức hệ Mác Lê Mao. Chấp nhận cái này có nghĩa là triệt bỏ cái kia. Chính vì vậy, mà cách đây mấy tháng, vào tháng 8, tự nhiên bức tượng khổng lồ của Khổng Tử bị mất một cách âm thầm ở quảng trường Thiên An Môn ; nhưng một thời gian sau lại được dựng lại. Có giả thuyết cho rằng, vì có sự tranh chấp trong đảng, ở mức độ cao, nên mới có hiện tượng này, chứ dân thường làm sao dám làm và đâu có phương tiện để làm. Tôi nghiêng về giả thuyết này. Chẳng khác nào như việc đối xử với Pháp luân công.  Sự lúng túng đi tìm một triết lý căn bản, một ý thức hệ hợp lý, hợp thời hãy còn là một vấn đề nan giải cho chính quyền Trung cộng hiện nay.
Cách đây hơn 200 năm, Napoléon đã nói : «  Nước Tàu là một con hổ đang ngủ. Khi nó thức dậy thì thế giới sẽ rung chuyển ». Rồi vào những năm 70, một nhà trí thức Pháp, ông Alain Peyrefitte viết quyển sách mang tựa đề : «  Khi nước Tàu thức giấc … », đã trở thành sách bán chạy nhất vào thời bấy giờ. Nhất là gần đây qua bản tường trình của Quỹ Tiền tệ thế giới (FMI), theo đó sản lượng tính theo đầu người hàng năm, tính theo giá trị tiền tệ là 5 000$ ; nhưng tính theo khả thế mua bán, thì là hơn 7 000$, nhân với hơn 1,3 tỷ người, thì tổng sản lượng quốc gia là vào khoảng 10 000 tỷ ; và theo dự đoán của FMI, chỉ cần năm sau năm, thì tổng sản lượng của Trung cộng sẽ bắt kịp Hoa Kỳ và vượt Hoa Kỳ. Từ đó nhiều người liên tưởng đến hiện tượng quá khứ : Hoa Kỳ bắt kịp tổng sản lượng của Anh quốc vào đúng năm 1900, thế rồi liền sau đó Hoa Kỳ trở thành đại cường quốc trên nhiều lãnh vực, chiến thắng Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Lạnh. Cũng từ đó nhiều người suy đoán là Trung Cộng sẽ trở thành đại cường quốc, sẽ tạo nên nhiều cuộc chiến tranh và làm lay chuyển thế giới.
Cái nhìn của tôi có đôi phần ngược lại. Theo tôi Trung cộng hiện nay mới chập chững bước vào nền văn minh thương mại, mà lại là một thứ thương mại rừng rú, làm mất niềm tin không những ngay với chính dân họ, mà còn mất niềm tin với nhiều quốc gia trên thế giới. Và với niềm tin thì người ta có thể làm nên bất cứ một cái gì, như một câu nói : «  Với niềm tin người ta có thể phá vỡ những thành trì hay cũng có thể xây dựng lên những thành trì. Không có niềm tin thì người ta không làm được gì cả. »
Thêm vào đó chính quyền Trung cộng vẫn bám lấy ý thức hệ cộng sản Mác Lê Mao, mặc dầu biết rõ ý thức hệ triết lý này đã lỗi thời.
Và theo tôi nghĩ, để có niềm tin cho một con người và ngay cả cho một chính quyền, một quốc gia, dân tộc, thì phải có một căn bản triết lý vững vàng, hợp thời. Giới lãnh đạo và ngay cả giới trí thức Trung cộng không đủ trình độ để tạo nên một triết lý ý thức hệ mới, muốn bỏ ý thức hệ của Marx không xong, muốn lấy ý thức hệ của Pháp Luân Công, của Khổng giáo, của Nho giáo cũng không được, vì trái với tư tưởng của Mao. Chính Mao đã nói : «  Khổng Tử chỉ là con chó giữ nhà cho chế độ phong kiến ; «
Trong tình trạng đó, mặc dầu kinh tế Tàu có phát triển gần đây, nhưng theo tôi nghĩ, thì con hổ Tàu chưa thực thức tỉnh, vì không có một triết lý hành động hợp lý, hợp thời, nói chi đến làm rung chuyển thế giới.
Paris ngày 18/12/2011
Chu chi Nam
(1)    Xin đọc thêm những bài «  Sự khác biệt giữa Khổng giáo và cộng sản.. « , cùng những bài viết về Trung cộng, trên : http://perso.orange.fr/chuchinam/
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Chu Chi Nam



Hội Đồng Hương Ở Mỹ – Phạm Hoàng Chương.



Bài đọc suy gẫm:  Hội Đồng Hương Ở Mỹ – Tác giả Phạm Hoàng Chương.
Hình ảnh minh họa: Hội chợ Tết 2012 tại Nam California.



Hội Đồng Hương Ở Mỹ

Phạm Hoàng Chương
Phạm Hoàng Chương là một tác giả viết về nước Mỹ kỳ cựu. Ông đã góp bài và nhận giải thưởng từ năm 2003. Là cựu giáo sư trung học ở Việt Nam trước 1975, vượt biên đến Mỹ năm 1984, ông đi học và trở lại nghề cũ. Sau nhiều năm dạy tại một trường công lập Mỹ ở San Jose, tác giả về hưu tại Riverside, Nam California., và vẫn liên tục góp thêm nhiều bài viết giá trị cho Viết Về Nước Mỹ. Sau đây là bài viết mới của ông.
**********************
Có một lần, “ông bạn lớn” của mục sư K. hỏi tôi sao không viết một bài về Hội đồng hương quê tôi ở Cali. Tôi giật mình, .bối rối: “Chà…khó quá, …anh biết đó, viết thì phải khen phải chê, chả lẽ cái gì cũng khen, mà chê thì đụng chạm. Mình ở trong Hội mà đưa chuyện nội bộ lên báo chẳng khác nào ‘vạch áo cho người xem lưng”, bà con chửi chết. Chưa kể ba đứa công an VC địa phương nó sợ mấy cái Hội đoàn bên Mỹ lắm, lần nào về nước chơi cũng hỏi tới hỏi lui….bắt ớn, ớn đến không muốn trả lời. Bây giờ mà viết thì có khác nào làm bản báo cáo không công cho chúng.”
Ông bạn lớn cụt hứng, nín thinh. Sau rồi tôi thấy ông cũng có lý. Viết về Việt kiều ở Mỹ mà không nhắc đến sinh hoạt các hội đoàn quả là một thiếu sót, như ăn ốc mà thiếu nước mắm gừng, ăn hột vịt lộn mà thiếu rau răm, ăn mận Mỹ tho mà thiếu muối ớt đỏ. Dân Việt Nam có cái hay là đi dâu cũng thích lập nhóm, lập Hội để quây quần với nhau, đoàn kết với nhau gây sức mạnh. Ngoài năm ba Đảng chính trị như Liên minh Dân chủ, Việt tân…, các Hội như Hội Cựu quân nhân, Hội Thương phế binh VNCH, Hội Phụ nữ, Hội Cựu học sinh, ..vô số nhóm này nhóm kia… tôi nhớ không hết, hầu như tỉnh nào ở VN cũng có một cái Hội đồng hương bên này. Hội đồng hương Thân hữu Ninh thuận tôi nó bắt đầu ra đời từ đầu năm 94, so với các Hội khác thì hơi trễ, nhưng phát triển rất mau. Trước đó một năm, tại Santa Ana đã có mấy buổi họp măt ăn uống của mấy nhóm dân Phan Rang quen biết thân nhau thật vui rồi, như nhóm trung tá Tài tham mưu trưởng, nhóm Quang Trung-huê, ông Triều Nguyên, nhóm ông Phước chủ rạp xi nê Thanh bình, nhóm anh chị Tiềm, Trần bá Sáu, nhóm gia đình mấy ông H.O mới qua từ Los Angeles, San Bernardino xuống và San Diego lên. Ai cũng mừng gặp lại đồng hương thoát khỏi địa ngục trần gian, lâu ngày xa cách, hỏi chuyện Phanrang tíu tít. Cũng quay phim video tape, chụp hình xôm tụ lắm. Rồi không hiểu mấy ông lớn bàn bạc, nhắm nhía chọn người đứng ra nắm Hội, tham khảo ý kiến thế nào mà một hôm ông Tài gọi phone lên San Bernardino hỏi ý tôi có nhận làm Hội trưởng tạm cho Hội Ninh thuận sắp thành lập tháng tới ở dưới Wesminster không. Tôi sửng sốt:
-Tròi ơi, thiếu gì mấy ông cựu sĩ quan cấp tá như anh, mấy ông đại doanh gia, bác sĩ nha sĩ luật sư nổi tiếng ở Phanrang trước 75 ở dưới Bolsa mà không chịu ra làm, lại kêu em ở trên núi xuống. Em đâu có quen ai nhiều. Không được đâu.
-Người nào cũng dính đảng này phái kia, bà con ngại, anh thấy em nhà giáo thanh liêm, gia đình ba má có uy tín đạo đức, xưa nay không hề có tai tiếng xấu, không làm điều gì thất đức, trong tỉnh ai cũng biết…Với lại, bữa đó ra mắt, anh chỉ giới thiệu em làm Hội trưởng tạm thời thôi, trong khi chờ đợi bầu người đại diện chính thức sau. Các tỉnh khác người ta lập Hội đồng hương ào ào. Mình có gần 300 người Phanrang ở Nam Cali, khí thế đoàn kết, tình làng xóm đang lên tưng bừng, phải thành lập gấp một Hội Đồng hương để gây quỹ giúp anh em H.O sắp qua Mỹ định cư, nhiều người quá sức nghèo, tội lắm, không có tiền bạc lo giấy tờ…
Nghe nói giúp cho anh em tù cải tạo H.O có tiền lo giấy tờ qua Mỹ, tôi thấy lòng chùng xuống, đâm ra xiêu lòng. Tánh tôi không thích ràng buộc việc đời, gánh vác chuyện thiên hạ chịu tiếng khen chê bình phẩm, nhưng nghe làm việc thiện lại không thể nào từ chối được. Anh Tài ở tù cả chục năm. Cá nhân tôi cũng ở tù. Bạn bè trong giới nhà binh tôi bị tù cải tạo nhiều lắm, còn kẹt bên nhà. Chịu cực một chút mà giúp cho nhiều gia đình H.O có tài chính qua Mỹ và ổn định trong bước đầu là chuyện nên làm. Bèn nhận lời.
Bữa đó mùa Christmas và New Year, trời se lạnh, ở chùa Huệ Quang có tới hơn 200 người Ninh thuận ăn mặc đồ mới kéo tới tham dự, ngồi chật cả một hội trường rộng kê đầy bàn ghế học trò, có cả một ban bếp núc bảy tám quí cô quí bà lui cui nấu nướng đãi ăn gỏi cuốn, nem chả, bún bò ê hề. Anh Tài giới thiệu tiểu sử tôi là giáo sư cả bên VN lẫn bên Mỹ, cũng là sĩ quan tù cải tạo vượt biên, ai nấy đều vỗ tay hoan nghênh…Tôi thấy có nhiều người lạ hoắc, lấy lí do không phải cư dân quận Cam, đề nghị mấy người lớn tuổi có máu mặt sống ở Wesminster lên làm Hội trưởng, không ai lên tiếng chịu ra ứng cứ, lại có mấy bác lớn tuổi không quen, nghe tôi khiêm tốn ăn nói có mấy câu mà coi mặt bắt hình dong, còn đứng lên phát biểu nhứt định yêu cầu tôi làm cho kỳ được. Đúng là bắt cóc bỏ dĩa. Đành phải long trọng hứa cố gắng làm tròn nhiệm vụ hội giao phó trước cử tọa vỗ tay rần rần.
Như năm xưa ở trại tỵ nạn Hồngkông bị ép làm Chánh đại diện Phật giáo, có nhiều tả hữu tài ba không quen biết ở đâu túa ra giúp đỡ, kỳ này tôi đã có sẵn Phó Hội trưởng ngoại vụ là Micheal Minh, chủ nhân Traffic school ở Bolsa, nội vụ là Quang, bạn học cũ, thương gia trước 75, tổng thư ký là Phú, luật sư Vân cố vấn pháp luật, thủ quỹ chị Thiện trước làm chủ pharmacy, anh Phước chủ rạp xi nê là ủy viên kế hoạch tài chánh, anh Tài báo chí, anh Vâng xã hội, còn các chức vụ kia sẽ bầu sau. Thấy mọi người ai cũng vui vẻ nhất trí, ăn uống chuyện trò cười nói thân mật, tôi cũng an tâm đi vòng vòng chào hỏi bà con. Anh Tài cho biết nay mai sẽ xin giấy phép lập Hội non-profit organization.đóng thuế đàng hoàng, trong tương lai có thể xin được “fund” của chính phủ để làm việc thiện giúp đồng hương đắc lực hơn, nghe rất ngon lành. Tôi chưa có kinh nghiệm mấy về cái nghề “hội trưởng” mới lạ này, chắc chắn còn phải bàn tính, soạn thảo kế hoạch làm việc, học hỏi nhiều với các anh lớn tuổi sau này, tạm thời cứ nhận cho có danh chánh ngôn thuận mà giúp bà con đồng hương.

Tết năm đó, mấy ông nội đưa tôi lên ghế Hội trưởng bên Bolsa bàn tính mở gian hàng Hội chợ Tết bán chả lụa nem chua đặc sản của Phanrang để gây quỹ mà không cho biết trước, giờ chót mới kêu tôi qua trông coi, điều khiển, mọi sự cất rạp, trang hoàng, nấu nướng đã có người lo.Tôi đích thân có mặt coi ngó trong ngoài, service, nhận hàng, chi thu tiền bạc, gom tiền giao thủ quỹ, mấy ngày liên tiếp mệt phờ râu, khuya phải lái xe chạy về nhà sáu bảy chục miles. Làm việc thiện, thấy cũng vui, kết toán tính ra kiếm được khoảng gần ba ngàn đồng làm vốn ban đầu cho Hội.
Mỗi tháng Phó Hội trưởng Minh cho mượn phòng học traffic school để anh em họp một lần, ra điều lệ, làm biên bản lưu đàng hoàng..Phú tổng thư ký có trách nhiệm ra báo newsletter mỗi 2 ba tháng một lần, báo quay roneo đen trắng thô sơ, mười trang trong bước đầu, rồi tăng dần lên hai ba chục trang. Đồng hương mới qua Mỹ có Ban xã hội đi thăm viếng ủy lạo, giúp đỡ làm thủ tục khám sức khỏe, giấy tờ, xin trợ cấp xã hội. Đám cưới đám ma, đau bệnh có đại diện đi chia vui, phúng điếu, thăm viếng tặng hoa. Mọi việc cấp bách có anh Tài, Phước, Quang, Minh, vàPhú hội ý toàn quyền quyết định, chỉ khi nào có việc quan trọng, hay ký checks chi tiền, tôi mới phải chạy qua. Như đáp lời kêu gọi của tổ chức LAVAS, Hội đã điện thoại và điện thư cho 25 dân biểu Mỹ phản đối việc cưỡng bách hồi hương đồng bào tỵ nạn VN ở các trại Đông nam Á, rồi sau đó tham dự ngày đi bộ gây quỹ hổ trợ cho LAVAS hoàn thành thủ tục pháp lý định cư cho thuyền nhân còn kẹt ở các trại.. Anh em biểu quyết mỗi tháng lấy nguyệt liễm 5 $, hay 30$ một lần cho nửa năm, tiền bạc sổ sách đều đăng báo phân minh rạch ròi..Bác sỹ Đoàn, trước là Trưởng Ty y tế Ninh thuận, ở Kansas, nghe tin gửi qua ủng hộ cho 200$, Cựu Hiệu trưởng trung học Duy tân Đặng vũ Hoãn, cựu Trưởng ty Cảnh sát Nguyễn văn Hay ở Úc nhận bản tin, gửi thư gửi tiền khích lệ, cựu Tổng thống Thiệu qua Mỹ chơi, cũng gọi phone khen ngợi Hội, gửi cho 300$ với tư cách công dân Ninh thuận..Kẻ góp công, người góp của. Tôi viết bài “Đời người qua Tử vi” đăng Bản tin, quảng cáo giải tử vi cho bà con, lấy tượng trưng 15$ mỗi lá số để gây quỹ, cũng thu được gần 200$. Dần dần, quỹ tạm đủ để điều hành, việc thu nguyệt liễm lại lắt nhắt phức tạp, khó theo dõi, nên mấy năm sau, toàn thể anh em làm lơ luôn, không thu nữa, một phần một năm Hội tổ chức 2 lần họp mặt Tết ở nhà hàng và Hè tổ chức picnic họp mặt ở One-mile- square Park, bà con rộng rãi đóng góp cũng bộn.
Các khu chợ làng quê, đánh cờ người, thi thả thơ, thi quốc phục, thử máu miễn phí…

Chủ trương của Hội tuyệt đối không làm chính trị, chỉ cùng với các Hội đoàn khác trên đất Mỹ bảo vệ, bênh vực quyền lợi người tỵ nạn Viet nam, đứng trên lập trường chống Cọng. Hội chủ trương đoàn kết đùm bọc người dân Ninh thuận ở Mỹ với nhau, và giúp đỡ dân nghèo bên nhà. Hoạt động tại Hoa kỳ, Hội giúp đỡ đồng hương Ninh thuận mới tới Mỹ sớm hội nhập đời sống mới, duy trì văn hóa tập tục quê nhà bằng cách tổ chức họp mắt một năm hai lần, Tết và Hè, chào cờ vàng ba sọc đỏ, chúc thọ, ca hát, ngâm thơ, đố vui, kể chuyện tếu, phát giải khuyến học cho con em giỏi, vun đắp tình đồng hương thân ái bằng cách thăm viếng, chia mừng, phân ưu, Tại Việt nam, Hội liên lạc cọng tác với Hội từ thiện Thanh Phong giúp đỡ vật chất cho các người già khổ, kẻ tàn tật, neo đơn, côi cút, người bịnh không đủ tiền mua thuốc nằm vật vạ ở nhà thương. Hội Từ thiện này do Hòa thượng chùa Trùng khánh lập ra đã lâu, giao cho Sư cô Diệu Tâm, xưa kia là chủ tiệm Phát lợi, làm chánh và bà cụ thân sinh tôi có tiệm buôn lớn ở Phanrang làm phó, hai người này là Phật tử thuần thành có đông con cái ra nước ngoài hay gửi tiền về giúp, nổi tiếng về làm từ thiện, cứu đói, cứu lụt liên tục nhiều năm trong tỉnh, nói tới ai cũng biết. Tôi làm Hội trưởng tạm được mấy tháng, .nhắc anh em bầu cho người khác như đã hứa, ai cũng lờ đi, bắt làm luôn nhiệm kỳ 2 năm.
Hồi đó, nhiệt tình quê hương gắn bó đồng hương với nhau chặt chẽ thiết tha lắm, bà con sốt sắng đóng góp, hô đâu có đó, nghe bà con ở đâu mới qua là đem bàn ghế tủ kệ tới cho, .nghe ở Phanrang có người ở tù biệt giam mười mấy năm vì tham gia Phục quốc mới ra, bịnh nặng mắt sắp mù, đua nhau gửi tiền về ào ào. Có lần quỹ lên tới hơn 11 ngàn, nên Hội chẳng những gửi về giúp các gia đình HO chuẩn bị qua Mỹ, mà còn cho các cô nhi viện Phật giáo và Thiên chúa giáo, các ngươi già neo đơn bệnh tật nghèo đói trong hang cùng ngõ hẽm ngoại ô Phanrang., kể cả các học sinh nhà nghèo mà học giỏi do anh em tin cậy dạy học bên đó gửi danh sách qua.Tội nghiệp anh em H.O nhận được mỗi người có 100 đô Hội gửi về giúp, viết thư qua xúc động cám ơn, có anh thú thật cả đời chưa hề cầm được số tiền lớn như thế, không biết lấy gì mà đền ơn. Đồng hương bên này thấy ai sắp qua được thì mừng cho người ấy, vui sướng thấy đồng tiền gủi về đem lại hạnh phúc cho người qua sau. Mất quê hương, nên có thêm đồng hương nào mới qua coi như đem qua hơi hướng của quê nhà sang, đẩy quê hương xích lại gần mình một chút, gợi lại một quãng đời thanh bình no ấm hạnh phúc đã qua. Gặp lại nhau ở Wesminster, tuy lưa thưa năm ba chục mặt quen mà coi như một cái Ninh thuận nhỏ, mừng rỡ ôm chào, hỏi thăm tin tức người đi kẻ ở rộn ràng.. Bản tin được gửi đi khắp thế giới, bất cứ nơi nào có địa chỉ chính xác do người quen Ninh thuận báo cáo, kết quả là nhận được rất nhiều thư hồi âm và tin tức, số phone, địa chỉ của những người mới. Số phone đồng hương do đó phổ biến ngày càng nhiều trên các bản tin, thiên hạ mừng rỡ rối rít gọi thăm nhau xuyên tiểu bang, kể lễ chuyện nhà chuyện người, chuyện con cái gia đình, ai cũng mong đợi bản tin mau mau gửi tới như con thơ ngóng mẹ hiền để biết tin tức sinh hoạt bên nhà, bên Mỹ của nhau.
Tháng 8 hè năm 94 Hội chúng tôi tổ chức picnic họp mặt đầu tiên tại Công viên One-mile-square Park, thành phố Fountain Valley, từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều.. Tổ chức ở đây thường hay gặp một hai hội đoàn khác sinh hoạt kế bên, ca hát ăn uống, chạy qua tươi cười chào hỏi tỏ tình đoàn kết.. Một số người đi lạc, phải giăng biểu ngữ bằng vải vàng chóe dài to tướng “Họp mặt Hè Thân hữu Ninh thuận” ngay góc Euclid và Edinger cho thấy rõ, đậu xe bên kia dường rồi đi bộ băng qua. Bà con đông đảo đem thức ăn, dưa hấu, nước ngọt, bắp, potato chip, cánh gà đùi gà, thịt sườn tới nướng barbecue…Mấy năm sau có thêm cái màn “bánh căng”, đặc sản của Phanrang, tức là bánh bột gạo xay nhuyễn, nướng thoa mỡ hành thơm phức, đổ trứng, chấm nươc cá hay mắm nêm. Nhiều người mò tới, nói xin lỗi, vì thèm được ngồi xổm bên lò than đỏ, ăn bánh căng nóng mới ra lò húp xuỵt soạt hơn là vì nhớ bà con quê nhà mà tới. Ăn miếng bánh căng mà nhớ lại cả một khung trời Phanrang, khu Bờ đê, Tấn tài, dường Ngô Quyền… Dưới những tàng cây xanh mát, các cụ già ung dung ngồi đánh cờ chiếu tướng, trẻ con tung tăng chạy nhảy reo hò bên bờ hồ xanh trong, người lớn chuyện trò, ngắm các hình ảnh sinh hoạt của Hội dán triển lãm trên các gốc cây to, các cô các bà quây quần tụ họp tâm sự cười đùa thảnh thơi êm ả trên cỏ…Khắp nơi vang vang tiếng chào hỏi ròn rã giọng Phanrang đặc.
-Ủa, chị Ba, qua Mỹ hồi nào vậy” Đi H.O hay ODP” Ở đâu vậy” Bà già có đi theo không”
-Kìa, anh Hào, anh qua hồi nào vậy” Trời, ngó anh sao hồi này già nhận không ra. Mấy đứa nhỏ có đứa nào đi làm chưa”
-Ý chết y, cô Ly Lan. Em nhìn nảy giờ nhận không ra, tưởng bà nhà giàu nào chứ, bây giờ trông cô lạ quá, mập ra trẻ ra…Qua đây còn mở tiệm uốn tóc nữa không”
-Ủa, chú Khánh, chú qua hồi nào vậy” Còn nhớ cháu hông” Cháu con bà Hai ở Xóm xe bò nè…..Ba má cháu nhắc chú hoài.. Chú dẫn được mấy đứa qua đây.”
Tôi thông báo bà con chuyện Bộ Nội vụ Tiểu bang California đã chấp thuận danh xưng Ninh thuan Friendly Association như một Non-profit Incorporation, và Hội từ nay có bổn phận phải đóng thuế để hoạt động. Có người hỏi tại sao phải giấy tờ rắc rối như vậy, tôi biết nói sao, “Làm ăn hợp lệ thì hi vọng xin được nguồn trợ cấp chính phủ, quyên góp cũng hợp pháp, hoạt động xã hội đắc lực hơn, người cho lại được trừ thuế, tuy tốn một chút nhưng có nhiều cái lợi vê sau.”
ANh em trong ban điều hành, làm việc với nhau, đôi lúc cũng có chỗ bất đồng ý kiến, cũng có lúc bực mình, cãi nhau, nhưng tôi trẻ nhất trong Ban, nên cũng khéo nhịn, đặt mình vào cương vị người khác để hòa đồng, tránh suy nghĩ chủ quan, nghĩ tới lợi ích chung tập thể mà dẹp cái ngã riêng, quên cái chức vị cá nhân mà chiều theo ý kiến đa số. Hội có tham vọng thực hiện một cuốn video quay các thắng cảnh núi biển Ninh thuận, thành phố, chợ búa, trường học.chùa Thánh, chùa Phật, nhà thờ, cách làm ăn sinh sống người Việt người Chàm ở các làng mạc, đại loại như mấy cuốn băng du lịch của Vân Sơn, để bán cho đồng hương bên này gây quỹ, nhưng rồi thấy cũng khó thực hiện, không có điều kiện, người kỹ thuật chuyên môn đáng tin cậy bên đó không có. Sau rồi nhiều người về nước chơi như đi chợ, nhắm video không ăn khách nữa, nên dự định chìm xuồng.
Có một cái Tết, nhạc sĩ Vô Thường chuyên đàn guitar dân Phanrang tới chơi, tặng cho anh em trong Hội một số CD do anh sáng tác, phát hành. Nhà anh hồi nhỏ, ở gần rạp xi nê Việt tiến, qua nhà tôi có mấy bước. Có một dạo, anh mở café Diễm rất đông khách..Thấy anh mà nhớ cả một vùng trời kỷ niệm ấu thơ. Mấy năm sau thì nghe tin anh bệnh mất, đúng là tài hoa bạc mệnh. Rồi có ca sĩ Chế Linh, cũng dân Chàm ở Ninh thuận, tới góp vui cho đồng hương mấy bài ca rền rĩ, ai oán thiết tha. Sau đó thì trên San Jose, một số đông đồng hương Ninh thuận gọi xuống, như Cúc Linh Chi, Lương Hùng…muốn tham gia Hội, nhưng sau khi trao đổi với anh Hoàng đưc Châu, đại diện trện ấy, thì hai bên nhất trí cần lập thêm một Hội Ninh thuận Bắc Cali, độc lập về tài chánh và điều hành, nhưng cùng dưới một danh nghĩa Hội thân hữu Ninh thuận ở Hoa kỳ trên mặt pháp lý. Ngày ra mắt Ban chấp hành Hội Bắc Cali vào tháng 9, anh em trong Hội kéo lên tham dự, tặng báo và một số áo thun T-shirt có in hai chữ Thân hữu Ninh thuận làm quà chúc mừng.
Anh Châu là anh ruột Cựu Tổng trường dân vận Hoàng đức Nhã, bà con với ôngThiệu, ông Ngô khắc Tỉnh, nhưng tánh bình dân hay pha trò, được lòng hầu hết mọi người trên đó, năm nào cũng được “tái đắc cử “làm Hội trưởng muôn năm., xin nghỉ không được. Dưới sự điều hành của anh, tài tháo vát của chị Nhung bà xã anh, Tố Lan, Kim Thoa, Chi Nga, và mấy anh chị cọng sự đắc lực, đồng hương Bắc Cali Tết nào cũng có tiệc họp mặt ở nhà hàng, ăn uống, ca hát, sổ xố tưng bừng, bà con đóng góp hậu hỉ, có năm nhiếu hơn cả dưới Nam Cali. Anh chị Châu cũng chăm lo làm việc thiện không thua gì dưới Wesminster, gửi tiền bạc thường xuyên về cho Hội Từ thiện Thanh phong cứu lụt, cứu đói…sổ sách, chứng từ, hình ảnh lúc nào cũng phân minh, tỉ mỉ. Mẹ tôi, Sư cô Diệu tâm và bác Tế cố vấn, nhận tiền phải bận bịu quanh năm đi chẩn tế, cứu lụt, cứu đói, và giúp trùng tu lại một số chùa chiền hư nát xiêu đổ trong tỉnh.
Nhưng có một lần sau khi Hội gửi về 900$ cho mẹ tôi (mướn Honda thồ chở về nhà quê dống xóc ê ẩm mình mẩy) đi phân phát tiền bạc cho các gia đình H, O khốn khó, các người nghèo, tàn tật, đơn chiếc, và bỏ ra 700$ chuộc lại một ngôi nhà của chùa Tỉnh hội xây trước 75 (bị nhà nước CS tịch thu để không đóng cửa chơi) làm văn phòng châm cứu phước thiện thì chánh quyền địa phương bắt đầu để ý, điều tra coi nguồn tiền từ đâu gửi về. Công an khai thác tin tức, điều tra lý lịch nhân sự Ban lãnh đạo Hội qua các anh H.O sắp rời Phanrang qua Mỹ và đồng hương về nước thăm. Họ bắn tin cho Hội hãy gửi tiền trực tiếp về cho chính quyền địa phương để “lo” cho dân nghèo. Nghe các H.O qua Mỹ kể lại, ai cũng ôm bụng cười lăn:
-LO hay là NO” Bộ hết người gửi hay sao mà phải gửi tiền về cho nhà nước để nhà nước “no”, nhân dân đừng có “no”. Họa chăng là điên khùng tới nơi mới đi giao trứng cho ác.
Thiền sư kiêm phóng viên Face-Book Tự Do (FB- Freelancer)Vũ Công Lý và nhóm hoạt cảnh Sinh Viên Liên Trường.
Bên Hội thân hữu Khánh-hòa cũng xảy ra chuyện tương tự, có người qua kể chuyện bên họ cũng muốn gửi tiền về trùng tu Trung học Võ Tánh, nhưng chánh quyền địa phương ép phải giao tiền cho Ban giáo dục Khánh hòa lo. Chắc là bên ấy tưởng bên này tiền “đô” rớt đầy đường dễ lượm lắm, nên cơ quan nào cũng giành quyền nhận tiền để làm việc “nghĩa”. Lúc đó, năm 96, tôi mãn nhiệm kỳ, bàn giao cho anh Phước chuyển lên San Jose dạy học thì phong trào H.O đã nguội, tiền bạc bà con đóng góp bắt đầu thưa. Làm ăn khó khăn, nhiệt tình nguôi ngoai, bà con đóng góp ít đi, mà thư người nghèo và thương phế binh gửi qua xin giúp đỡ tới tấp càng lúc càng nhiều, anh Phước phải nghĩ ra cách làm những hộp nhựa cứng bỏ ở các chợ để người mua bỏ tiền thối bạc cắc lẻ vào ủng hộ Hội giúp kẻ bất hạnh ở Phanrang. Anh Phú tổng thư ký viết mấy lá thư cầu may, đóng dấu của Hội, kèm theo giấy phép tiểu bang, hình ảnh, lịch sử hoạt động từ thiện, gửi cho vài ba Hội Từ thiện quốc tế nhờ giúp đỡ tài chánh để cứu giúp đồng bào bịnh tật thiếu thuốc ở quê nhà. Kết quả thật bất ngờ: một tháng sau có người Đài loan đại diện một Hội từ thiện quốc tế tìm về Phanrang giao 10 ngàn dollars cho Hội Thanh Phong trang bị phòng châm cứu thành Tuệ Tĩnh đường, sắm đấy đủ thuốc men, máy móc, giường nằm, trả lương tượng trưng cho các thày châm cứu thiện nguyện, góp mua một ruộng muối dưới vùng quê lấy huê lợi thực hiện nhiều công tác xã hội khác. Chính quyền địa phương nghe tin, chận số tiền lại đòi giao cho họ, nhưng Hội đã nhanh tay rút trong ngân hàng ra mua thuốc men hết cho bệnh nhân. Anh Phước và chị em gia đình thân quyến cũng bỏ tiền túi ra xây một nhà dưỡng lão nuôi vài chục cụ già không con cái dưới vùng biển Mỹ tường, Vĩnh Hy.
Đến nhiệm kỳ anh Tài làm Hội trưởng, Hội tiếp tục những hoạt động từ thiện cứu trợ ở quê nhà qua liên lạc với Hội Thanh Phong, nhưng số lượng ít dấn, anh Cung chị Tài, chị Thanh bỏ tiền túi giúp trùng tu các ngôi chùa nhỏ ở làng mạc xa xôi, giúp Gia đình Phât tử, chùa Tỉnh hội, các bà con khác tùy tâm muốn gửi cho ai, Hội tập trung gửi một lần. Bác sĩ Đoàn bấy giờ về hưu, quay về Santa ana mua nhà ở, an hưởng tuổi già, được mời ra làm cố vấn thường trực cho Hội. Hội nghĩ đến việc tìm trong giới trẻ những thanh niên có thiện chí thay thế lớp già, đứng ra tiếp nối gánh vác công việc, bắt đầu là con em của anh chị em nằm trong Ban điều hành, khuyến khích bà con dẫn con em tới dự picnic Hè, Tiệc Xuân, nói chuyện, để các em noi gương, bắt chước. Một vài em chịu bắt tay góp sức, nhưng rồi cũng không được lâu bền. Tuổi trẻ lớn lên ở bên này không trải qua những gian khổ chiến tranh, không chia sẻ buồn vui với đồng hương qua các thời kỳ lịch sử tối tăm, hay chịu đựng những khổ đau tủi nhục của tù đày như lớp cha anh, nên không mấy thiết tha với việc duy trì một Hội đoàn thân hữu có công năng cưu mang tương trợ, đoàn kết đồng hương làng xóm với nhau…làm buồn lòng các bậc trưởng thượng không ít. Tre già nhưng mà măng không chịu mọc. Thôi thì Hội nhờ phước Trời, ráng duy trì được tới khi nào hay khi ấy, ở đời mọi sự đều là vô thường, có sinh tức phải có lúc diệt.
Thời kỳ đó tôi dây học trên San jose, hè 99 về VN lần đầu thăm gia đình, được công an xuất cảnh ở một tòa nhà lộng lẫy mới xây dưới biển Bình sơn mời xuống nói chuyện, vì biết tôi trước đây làm Hội trưởng Ninh thuận.Cán bộ người Bắc, ý chừng là trưởng ban tuyên vận hay chính trị gì đó mời hút thuốc 555, ăn nói rất khéo, nhã nhặn đẩy đưa lịch sự, con mắt sắc sảo quan sát không bỏ sót thái độ cử chỉ nhỏ nhặt nào của tôi, hỏi dò la đủ thứ chuyện bên Mỹ, chuyện người Thượng tỵ nạn ở Cali có đông không, chuyện anh có đi Huế chơi chưa, chùa Thiên Hưng ở Văn Sơn lớn và đẹp nhất tỉnh do thày Huyền Vi gửi tiền về xây cất, anh biết thày ở đâu không, chuyện Vn chưa vào dược WTO nên phải xuất khẩu hàng lệ thuộc vào các công ty nhãn hiệu Thái lan, không còn lời bao nhiêu, chuyện anh có thích đầu tư ở VN không, bên đó anh có biết người Phanrang nào làm ăn giàu có lớn không…Tôi nói bên này không có luật lệ rõ ràng phân minh ai mà dám đầu tư, anh “tuyên vận” nghiêm mặt chận lại không cho nói tiếp, đổi qua đề tài khác. Tôi biết ý không thèm nói nhiều nữa, trả lời dấm dẳn, hay nín thinh, anh ta bèn vuốt ve “chuyện tịch thu nhà cửa, bắt học tập cải tạo, bắt vượt biên, đi kinh tế mới ngày xưa..thuộc về quá khứ rồi…bây giờ người Việt với nhau mình nên bắt tay xây dựng lại đất nước, tôi biết ở đây cũng còn nhiếu cái tiêu cực lắm, như công an giao thông ăn tiền mãi lộ xe hàng, nhân viên soát vé phi trường vòi vĩnh, ăn tiền hối lộ của Việt kiều về nước…” Tôi chăm chú nghe không nói gì, nhưng trong bụng cười thầm, “Cũng biết vậy sao” Good boy !”
Năm 2000, anh Bảo lên thay., làm liên tiếp hai nhiệm kỳ Hội trưởng vì không có ai chịu ra ứng cử. Anh cũng chịu khó, nhiệt tình với quê hương, nhưng tiền gửi về giúp đồng hương thưa thớt dần, vì ít người đóng góp. Anh ra được một hai tập báo Xuân có nhiều bài vở hay, bìa cứng in hình màu Tháp Chàm, hình ảnh đặc trưng của xứ Ninh thuận khô khan nóng cháy, đăng tin tức chia vui với một số bà con có con em tốt nghiệp ra bác sĩ, dược sĩ, luật sư… Đồng hương bên Mỹ đã mỏi mệt, ít người làm công tư chức Mỹ lương cao, một số nhờ vã con cái mới ra trường đi làm, ai cũng muốn dành tiền mua cái nhà để ở, có người income thấp, phải xin housing, tiền già, tiền bệnh, medicare. Đa số bà con tuổi già chập chờn tời nơi, mà bên nhà thì thiên tai bão lụt hạn hán quanh năm suốt tháng, lòng tốt của ai cũng co lại. Việt kiều hải ngoại đã gửi hàng năm mấy tỷ đô la về cứu giúp thân nhân bà con bè bạn, mà sao đất nước cứ nghèo đói, dân tình cứ kêu than rên xiết hoài….
Qua đời anh Trình lên làm Hội trưởng thì ban báo chí thông tin bắt đầu hoạt động mạnh hơn, nhưng khởi sắc là nhờ phần kỹ thuật ấn loát, bài vở, và mục trà lời thư tín. Là dân H.O, cựu đại úy không quân VNCH, qua Mỹ 1992, học đại học cộng đồng ra chuyên viên sửa Toyota, anh chịu khó mày mò học thêm về computer, nhiếp ảnh, quay phim, viết lách, sản xuất ra những tập đặc san Tết và Hè, bìa cứng màu mè tươi thắm gần 200 trang giấy trắng tinh, khéo léo xã giao liên lạc chặt chẽ với những đồng hương ở San jose, các tiểu bang xa xôi, nhờ viết bài và “donate” tiền bạc rộng rãi cho quỹ thêm phong phú. Trình lại được một số anh em bà con ruột thịt, sống gần gũi bên cạnh, toàn là dân H.O ở tù lâu năm, hậu thuãn giúp đỡ, làm cho phong trào Hội tươi tỉnh thức dậy.
Quan niệm việc phải cứu giúp bà con bên nhà như một bổn phận mà các đời Hội trưởng tiền nhiệm duy trì, theo Danny Trình và một số thân hữu, coi như đã lỗi thời. Anh chủ trương tiền bà conđóng góp bên này chỉ để phục vụ cho bà con bên này, đi mừng đám cưới, phúng điếu đám ma, mua hoa tặng người bệnh, mua quà xổ xố đắt tiền cho tiệc Xuân, tới lui hì hục chuyên chở những lò bánh căng bằng đất sét nung, bịch đá, trái dưa, các soong thức ăn nặng nề ra công viên chiêu đãi đồng hương dự picnic hè, ngồi nhà chăm chút tô điểm cho 2 tờ báo ra đời một năm, không tiếc tiền tem cước phí gửi báo đi xa các nơi bà con yêu cầu, quan niệm đặc san chính là dây liên lạc quan trọng kết nối các đồng hương Ninh thuận ở khắp thề giới lại với nhau.
Anh mời luật sư Nguyễn quốc Lân, gốc dân Phanrang, Cựu phó tỉnh trưởng hành chánh nội an Ninh thuận, bác sĩ Văn kỳ Chương, các giáo sư kỳ cựu Duy tân… tới dự tiệc Xuân. Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Vũ Hùng dân Phanrang, cũng tình nguyện tới làm MC, ca hát vang lừng cho tiệc Tết mỗi năm. Bà con lục tục kéo nhau trở lại sinh hoạt họp mặt đông như hồi nới thành lập. Nhiều đồng hương ở xa, Na uy, Úc, Canada, miền Đông, đọc báo, nghe tiếng, bay qua Little Saigon, tham dự tiệc Xuân, picnic hè một lần cho biết. Vài ca nhạc sĩ, văn sĩ đồng hương cũng nhân dịp đông đảo này đem CD, Dvd, sách báo tới ca hát, nhờ mua ủng hộ, giúp cho các tổ chức từ thiện, cựu quân nhân và thương phế binh, các thày giáo nghèo ở quê nhà… Một người bạn cũ của Trình, anh Lê, ở tù CS qua Mỹ trễ, học tốt nghiệp computer science, làm hãng Mỹ, lấy làm cảm khái về hoạt động cộng đồng nhiệt thành của anh, design một website đặc biệt cho Hội thân hữu Ninh thuận trên mạng, làm sinh hoạt đồng hương thêm phần phong phú, tân tiến, đa dạng..Trưởng nữ anh Phước, Võ thị Hiền, cũng mở một website đầy các slide shows hình ảnh diễm lệ, âm nhạc tuyệt vời, truyện ngắn, lưu bút kỉ niệm, tâm tình cho cựu học sinh Duy tân Phanrang thưởng thức, chia xẻ.

Các Hội trưởng tiền nhiệm, ai cũng khen ngơi công lao khởi sắc cho Hội của Trình, nhưng lại không vui vì việc anh phá tiền lệ, không gửi tiền về VN nữa. Trên San Jose, anh Châu cũng than già yếu mỏi mệt, xin rút lui, không quyên tiền được, không hăng hái gửi về làm từ thiện nữa. Anh em bèn tổ chức họp mặt, mời bác sĩ Đoàn cố vấn và tôi (vốn ở xa Hội nhiếu năm nay) tới góp ý. Theo Trình và một số anh em H.O, đất nước đã chuyển qua kinh tế thị trừờng từ năm 90, bây giờ là 2006, ai cũng được tự do buôn bán thoải mái, xe máy xe hơi chạy đầy đường, nhà lầu ba bốn tầng ở tỉnh nhỏ mọc lên như nấm, thiên hạ qua Mỹ du lịch như đi chợ, còn ai thực sự đói khổ nữa mà giúp. Một anh đỏ mặt vung tay nói:
-”Tại sao mình bỏ xứ vượt biên thì chúng nó bắt bớ, bắn bỏ, tịch thu nhà cửa” Ở lại thì nhốt tù cải tạo, vợ con nheo nhóc, bắt đi kinh tế mới. Ê chề bầm dập mới lo lót chạy được qua tới đây, lại phải ngày đêm học hành, lam lũ khổ cực đi cày, dựng lại cuộc đời, ở nhà mướn, trả tiền bills, bây giờ còn phải gửi tiền về “nuôi” chúng nó sao” Không “fair” chút nào hết.
Anh khác bực bội cất giọng oang oang phân tích:
-”Bao nhiêu quốc gia Âu Mỹ Nhựt viện trợ lâu nay cho VN, tiền đi đâu hết rồi” Bảy tám tỷ bạc Việt kiều gửi về hàng năm. Tiền dân đóng thuế, xuất khẩu cà phê, tôm cá, xuất khẩu lao động qua Mã lai, Indonesia đi làm gửi tiền về, khai thác mỏ dầu, tiền cướp đất dân oan, chùa chiền, bán cho ngoại quôc cất villa, làm sân golf, xây cơ sở, nhà máy, đầu tư…v.v ……đâu hết rồi” Tiền các công ty ngoại quốc hối lộ để đầu tư vô túi các quan to tham nhũng chia chác nhau hết rồi, có xuống tới tay dân đâu. 30 năm “giải phóng” đã qua, mà sao dân cứ nghèo đói, thiếu ăn, bịnh tật, thất học, rên la hoài là tại sao” Đâu phải lỗi của mình mà bắt mình phải chìa vai gánh vác”
Một chị đi vượt biên bể, bị bắt nhốt mấy lần, vênh mặt lên trời, nói giọng thẽo thợt:
-Họ dành độc lập, làm chủ đất nước, tự xưng là đỉnh cao trí tuệ loài người, xử dụng tài nguyên đất nước, bán biển bán đất cho Tàu thì phải có bổn phận nuôi cho người dân no ấm chứ. Nếu có giúp, sao mình không giúp cho Hội Thương phế binh ở đây, gửi về cho anh em cụt tay cụt chân bên nhà, có phải hơn không”
Trình và mấy anh chị tức giận cũng là Phật tử thuần thành như mấy anh lão thành tiền nhiệm, như tôi, như Bảo, anh Châu, như nhiều anh khác, cũng biết “lấy tình thương xóa bỏ hận thù”, “lấy ân báo oán”, hay “cúng dường chúng sanh tức là cúng dương chư Phật”…nhưng quan đỉểm của các anh chị ấy không phải là không có lý. Như Trình, ở tù CS bảy năm, hy sinh tuổi trẻ cho cuộc chiến vô lý, qua Mỹ hai bàn tay trắng, nheo nhóc 2 đứa con muộn, làm sao bắt anh biến thành Bồ tát từ bi ngay được. Hơn nữa, chính mắt tôi thấy, một mình anh đêm hôm thức hai ba giờ khuya đánh máy, lọ mọ đeo kiếng đọc, sửa bài viết trên computer, in hình, lay out tờ báo, mua tem, gói báo gửi đi các nơi, vợ con lại bỏ thì giờ mua hoa đi thăm viếng đồng hương, mua quà xổ số, gọi phone xã giao thăm hỏi bà con ờ xa, công lao gia đình anh cực khổ làm ra tiền cho Hội thì cũng nên để cho anh cái quyền quyết định chi tiêu, điều hành công việc. Tốt xấu, nên hay không nên, đã có cộng đồng phê phán, khen chê. ” Ăn cơm nhà vác ngà voi”, mà còn bắt anh ta phải vác theo ý mình nữa thì cũng hơi quá đáng.
-”Mang tiếng Hội Ái hữu Ninh thuận mà không giúp Ninh thuận bên nhà thì cũng không đúng. Thôi thì”, tôi góp ý, “lâu lâu bên nhà có bão lụt hạn hán, mình cũng nên gửi về giúp, như vậy mới gọi là ” lá lành đùm lá rách.”, “lá rách đùm lá tả tơi”.
-Cái đó thì em đâu có từ chối, ” Trình cười, ” thiên tai đâu phải do lỗi Cộng sản.
Tôi nhiều khi ngồi nghĩ kỹ lại, thấy Trình nói cũng không sai. Mẹ mình 80 tuổi, vất vã đi nhà quê làm từ thiện, cứu đói cứu lụt bên nhà, gánh bớt nỗi khổ của dân đen dùm họ, tối về tới nhà mệt ngất, lên cơn đau tim tưởng chết, em mình buôn bán 19 năm nay nộp thuế không biết bao nhiêu cho họ, biếu xén các chỗ công quyền, giúp kinh tế đất nước phồn vinh, mình là Việt Kiều “núm ruột ngàn dậm”Đảng và chính phủ ưu ái mời về nước đầu tư du lịch, đem ngoại tệ về, tiêu xài đô la, cho tiền dân nghèo, cô nhi, bà lão, chỗ này chỗ nọ, giúp xoa bớt lòng căm phẩn oán hận của dân đen đối với nhà nước, mà công an đia phương nào có biết ơn, lần mới đây về chơi, vẫn coi mình như kẻ thù, ăn nói xách mé trống không, hạnh họe ra điều ta đây, quen thói bắt nạt dân lành trong tỉnh. Nói “tôi về hưu rồi” thì hỏi tại sao về hưu, lương hưu bao nhiêu môt tháng, vợ làm gì, con làm gì, nghe mà tức cười. Gặp ông sư Ấn độ theo phái doàn sang VN, ra Phanrang tìm hiểu đạo Bà la môn ở mấy làng Chàm, vì không có ai hiểu tiếng Anh, sợ Sư cười dân VN dốt, mình nhận lời thông dịch giùm thì tưởng mình là gián điệp cho Mỹ đen(“!).Ra Bắc vào Nam thăm bà con, coi phong cảnh thì nói sao đi “nhiều” nơi quá vậy(!”), kiếm cớ buộc tội ” đăng ký tạm trú tạm vắng sai qui định” để phạt mấy triệu bạc. Ở trên thì chiêu dụ Việt kiều, ở dưới thì bòn rút được đồng nào hay đồng nấy, tra hỏi Hội bên đó ai làm chủ tịch, ai làm thư ký, thử hỏi ai mà chịu nỗi. Chủ tịch hay thư ký thì thây kệ xác họ bên đó, có ai động chạm, lật đổ được ghế ngồi của quan thầy mấy anh bên này đâu mà cứ hỏi hoài. Hội đồng hương nói nghe xôm tụ, chứ xúm lại ăn uống họp mắt hàn huyên cho thỏa tình chòm xóm quê hương vài ba tiếng đồng hồ rối mạnh ai nấy về, có gí mà trọng đại mà năm nào ai về nước chơi, cứ hỏi tới hỏi lui đến bực mình.
Trong Hội, có một số ít người khác quan điểm nhau, vì lý do này lý do kia, chê cái này khen cái kia, lai rai công kich nhau, nhưng công việc vẫn cứ trôi chảy. Trình làm thành công hai nhiệm kỳ liên tiếp, được nhiều đồng hương xa gần quí mến, rồi mới đây nhân tiệc Xuân, bà con bầu anh Phó Hội trưởng họ Trần, lên thay, dáng dấp cao lớn, già dặn, phong thái ôn hòa, dễ tính, được lòng nhiều người. Lật bật mới lên mấy tháng, anh đã sốt sắng tổ chức picnic hè rầm rộ, kêu gọi bà con tới dự, ăn bánh căng… Lại sắp được ăn bánh căng nữa rồi, hoan hô Tân Hội trưởng.
Tôi thấy ngay trong gia đình tôi, cùng cha mẹ đẻ ra, mà anh em ruột còn khác nhau về tánh tình, sở thích, chính kiến, huống chi trong một tập thể, một Hội đoàn vài ba trăm người, “chín người mười ý”, trình đô nhận thức khác nhau, làm sao tránh được những bất đồng ý kiến, cãi cọ, tự ái, tranh chấp. Đất nước, triều đại nào, đảng phái, hội đoàn nào, tổ chức, cuộc đời nào xưa nay cũng có những bước thăng trầm vinh nhục, Hội đồng hương nào cũng vậy, tôi nghĩ, phải có những lúc lục đục nôi bộ, tình cảm sứt mẻ, làm sao tránh khỏi, nhưng tình xóm giềng, làng mạc, quê hương gắn bó, lòng vị tha sớm muộn gì rồi, với thời gian, cũng bao trùm lên hết mọi nhỏ nhen, hiềm khích của cá nhân mà kéo dài tuổi thọ của Hội, ít ra trong suốt thế hệ người Việt tỵ nạn thứ nhứt trên xứ người.
Chuyện lớn ở đây là, biết thế hệ thứ hai, thứ ba, con cháu mình vài chục năm nữa, có còn đọc được, viết được tiếng Việt lưu loát, có còn giữ được phần nào văn hóa phong tục cổ truyền, có còn thương yêu, bênh vực, giúp đỡ đồng bào của mình hay không. Và nhất là có khi nào nhớ đến một nơi chốn bình yên, hiền hòa, xinh đẹp, mộc mạc, bên kia đại dương, đã từng là nơi chôn nhau cắt rún của ông bà tổ tiên mình, một vùng đất nước đau thương đầy oan khiên hoạn nạn, gầy còm hình chữ S, quanh năm cúm gà, dịch tả, bão lụt, nằm bên biển Thái bình sóng vỗ miên man, có mong một ngày nào đó trở về góp sức xây dựng tổ quốc văn minh giàu mạnh cho thế giới năm châu quay nhìn, cúi đầu khâm phục hay không. Đó là giấc mơ của người viết, người Ninh thuận hải ngoại nói riêng, người Việt lưu vong nói chung, đang hòa hợp an trú trong vòng tay thương yêu, ấm áp bao bọc của các Hội đồng hương mọc lên khắp nơi trên đất Mỹ hiện nay.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:


Con Gái Tôi Đâu? – Ngô Viết Trọng


Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa
Hẹn gặp nhau khi pháo giao thừa…
…Mong ước tìm cô gái Xuân xưa, cho vơi bao niềm nhớ
Có đâu ngờ Xuân vắng người thơ
 Nhạc & Lời: Châu Kỳ- Ca sĩ: Đàm Vĩnh Hưng (nhạc của tui).
Nhân dịp xuân về, blog16 xin kính  chúc quý bậc trưởng thượng, quý thân hữu, quý bạn,  một năm mới An Khang, Thịnh Vượng.
Bài đọc suy gẫm:  Con Gái Tôi Đâu? tức “Vết Hằn Mùa Xuân” của tác gỉa Ngô Viết Trọng.
Ghi chú: Hình ảnh từ cả nghìn nguồn trên net về Tết Mậu Thân tại Huế chỉ có tính cách minh họa.
Vết Hằn Mùa Xuân – Ngô Viết Trọng.

 Mời bạn đọc truyện ngắn nầy để nhớ lại Mùa Xuân năm nào Công Sản đã gieo rắc đau thương trên người dân vô tội. 
Dì Sáu đang giúp bà Thái lượm những hạt cứt chuột, những hạt sâu cùng những thứ khác lẫn lộn trong mấy thúng nếp thì Liên về.  Cô gái với khuôn mặt bầu bĩnh tươi như hoa, dựng chiếc xe đạp trước sân, hớn hở bước vào nhà nói như khoe khoang:
- Chào dì qua chơi! Mạ với dì thấy chiếc xe đạp của con chưa?
Hai người đàn bà đều ngừng tay nhìn ra. Một chiếc xe đạp đàn bà mới toanh láng coóng, sườn sơn màu tím óng ánh, ghi đông, vành, tăm đều sáng choang.
- Trời! Chiếc xe của công chúa có khác! Cho dì mượn đi phố một bữa đi!
Bà Thái ngắm nghía chiếc xe, mặt bà cũng tươi rói, hết nhìn Liên lại nhìn dì Sáu hài lòng, hãnh diện:
- Mất của tôi gần ba chục thúng lúa đấy! Rứa là cô ưng chi tôi cũng thỏa mãn cho cả rồi. Vô thay quần áo đi mà ra phụ mạ làm sạch sẽ ba cái nếp để lo bánh trái cho rồi! Tết ni đình chiến chắc mấy thằng anh mi cũng về. Tổ cha mi hai ngày nữa là lên mười tám rồi, phải siêng siêng lên cho mạ nhờ một tí chứ!
Liên cười qua con mắt, nũng nịu nhìn mẹ:
- Thì con lo học chứ có lười nhác đâu nào! Mạ lo chuẩn bị quà thưởng khi con đậu tú tài cuối niên khóa đó!
- Thì đã thưởng trước chiếc xe đạp rồi cô! Cô liệu hồn để trượt vỏ chuối là chết với tôi đó chứ đừng nói!
Dì Sáu cười chung hòa niềm vui:
- Thì thưởng cho hắn một thằng dôn cao ráo đẹp trai, cháu có chịu không?
Cô gái vẫn mặt tươi như hoa cười khúc khích:
- Con không cần tới một thằng dôn cao ráo đẹp trai đâu dì! Con chỉ cần một anh chồng xấu ỉn thôi.
Cả ba người cùng cười ròn rã. Dì Sáu hỏi:
- Mụ nội mi nói cái chi lạ đời rứa! Răng không ưng chồng đẹp mà lại ưng chồng xấu nói cho dì nghe thử coi!
Liên lại cười khúc khích:
- Dì không nghe người ta nói “củi nè dễ nấu chồng xấu dễ sai” đó sao? Con dại gì mà lấy chồng đẹp!
Dì Sáu cười nghiêng ngửa:
- Thì ra con nhỏ tinh ranh tới rứa là cùng! Cho hắn bấp một thằng chồng hay đặp vợ cho biết mặt!
Bà Thái cũng cười ròn rã:
- Tổ cha mi nói rứa có chó mà dám ưng mi! Coi chừng ở quá đó nghe con!
- Ở quá con cũng không sợ. Ở với ba với mạ lo chi!
Liên vừa nói vừa nhí nhảnh đi vào phòng của mình. Dì Sáu nhìn theo cười:
- Hắn tuổi Tân Mão phải không chị? Mới nhỏ chút xíu đó mà! Hèn chi lớp mình mau tra cũng phải.
- Có thư đi thư lại rồi đó dì! Thấy cái thằng cũng hiền lành dễ thương!
- Chị không la hắn à?
- La mần chi! Trước mình răng thì chừ hắn rứa! Nhưng mình cũng phải ngó chừng chừng cho hắn chứ! Tôi chỉ ớn ớn mấy thằng lường gạt thôi. Nói cho cam quả, con ni cũng ngộ thiệt. Từ ngày đẻ hắn ra trong nhà cứ ăn mần nên phơi phới. Học hành thì chuyên đứng nhất đứng nhì, năm mô cũng có phần thưởng. Cha hắn cưng lắm, muốn chi được nấy mà!
- Hắn dễ thương quá đi chứ! Thằng mô mà gặp hắn thiệt là có phước!
Hai người đang vui vẻ bàn tán thì Liên đã thay xong quần áo, chạy vụt ra phụng phịu đưa cả hai tay đấm thùm thụp vào lưng bà Thái.
- Ồ, cái con! Mi mần cái chi rứa?
- Mạ tầm bậy lắm! Mạ đọc chùng mấy cái thư của con hết trơn rồi phải không? Trong phòng con ngoài mạ ra ai vô được?
Cả ba người lại cùng cười ròn rã. Bà Thái nhìn con gái âu yếm:
- Thì mạ phải kiểm soát chứ lỡ gặp thằng mô ba láp hắn dụ dỗ con mạ dắt đi mất mạ biết mần răng? Nói rứa chứ con của mạ đứa mô mà dụ dỗ được!
- Lần sau cấm mạ không được coi chùng thư riêng của con nữa đó!
Dì Sáu nhìn cái cảnh hạnh phúc tràn trề của hai mẹ con mà thèm khát. Chồng dì, ông Hữu, tập kết ra Bắc biệt tăm đã hơn mười năm rồi. Con Lý, đứa con gái của dì và ông Hữu kém Liên một tuổi, học hành chưa tới đâu hết phải bỏ ngang. Sau này dì cũng có thêm một thằng nhỏ nữa giờ đã lên sáu, không rõ cha nó là ai. Cuộc sống của mấy mẹ con dì chưa lúc nào được thoải mái cho lắm. Bà Thái là chị con ông bác của dì vốn rất thương dì nên vẫn hay giúp đỡ dì nhiều mặt. Hai chị em qua lại với nhau khá tâm đắc. Dì nhìn hai mẹ con bà Thái rồi bất giác thở dài:
- Con gái chỉ ở với cha mẹ được một thời. Mai mốt là con người ta rồi đó.
Lời nói của dì Sáu như là một cái đánh động nhẹ vào tâm tư bà Thái. Bà Thái quay lại nhìn người em họ rồi lại nhìn Liên. Thình lình bà ôm lấy Liên hôn lên tóc, lên má, lên cổ nàng tới tấp. Nước mắt bà trào ra ràn rụa trước sự ngơ ngác của dì Sáu. Giọng bà thổn thức nấc lên:
- Mai mốt con đi lấy chồng rồi mạ ở với ai đây?
Cặp mắt nai của Liên cũng mở lớn tròn xoe long lanh nước. Nàng cũng ôm chầm lấy mẹ rồi sau đó gục mặt vào vai mẹ. Bà Thái lại nghẹn ngào:
- Con khoan đi lấy chồng đã nghe! Con đi lấy chồng rồi thì mạ ở với ai đây?
Dì Sáu sững sờ rưng rưng nước mắt lặng người chốc lát trước hoạt cảnh ấy. Sau đó dì làm tỉnh lên tiếng:
- Cái chị ni vô duyên thiệt! Con gái lớn ai không lấy chồng? Mà đã có chi mô nà? Gả hay không đều còn do mình mà! Hắn đi lấy chồng thì chị ở với anh Thái chứ ở với ai nữa!
Một chốc sau hai mẹ con buông nhau ra, mắt người nào cũng đẫm lệ. Dì Sáu vươn vai đứng dậy cười:
- Ngồi ngó hai người tôi cũng mệt. Thôi, hai mạ con làm với nhau đi, tôi về!
*
Ông Thái trước đây đã từng làm Đại Diện xã. Ông là người kiến thức rộng, có đạo đức,làm việc gì cũng có lý có tình nên rất được lòng người. Bây giờ ông đã thôi việc nhưng mọi người, kể cả lớp có chức sắc trong xã lúc nào cũng tỏ ra trọng vọng kính mến ông. Những việc làm lớn nhỏ liên can đến chuyện an ninh thôn xã, phát triển văn hóa, quân cấp ruộng đất, cúng tế hàng năm… những người gánh vác công việc lúc nào cũng thỉnh hỏi ý kiến ông. Những mối bất hòa, những vụ xung đột gia đình hay xóm giềng với nhau, dù không còn làm việc, hễ ông đứng ra dàn xếp thì thế nào cũng yên.
Cúng giao thừa xong, ông Thái toan đi ngủ bỗng nhiên ông cảm thấy có gì hơi khác trong tiếng pháo nổ như mọi năm. Ông lắng tai và ngạc nhiên nghe những tiếng nổ lạ có thể không phải là tiếng pháo.  Không lẽ lại có bắn nhau? Cái tin hưu chiến đã được loan đi rộng rãi cho đồng bào yên tâm ăn tết mà! Ông áy náy không thể nào ngủ được. Đến khi nghe thêm nhiều tiếng nổ lạ một vài nơi nữa, ông Thái mới đoan quyết đấy là tiếng súng. Ông liền tìm cách liên lạc với xã để biết tình hình.
Sau khi ra ủy ban xã, ông Thái liền nhắn về nhà cho biết tình hình đang xấu lắm, ông chưa thể trở về liền được. Nếu có ai tới thăm hỏi ông cứ bảo là ông đi thăm viếng ai trên phố.
*
Sáng mồng một tết thì cả xã nhốn nháo về tin Cộng Sản đã kéo về khắp nơi. Thế là sau đó chẳng ai còn bụng dạ xuất hành chúc tết họ hàng chung quanh. Mọi người đều lăng xăng lo cất giấu hoặc thủ tiêu những thứ gì trong nhà có liên can đến binh lính và chính quyền miền Nam như bức hình chụp, giấy tờ, quần áo giày mũ… Và Cộng Sản đã kéo về làng thật. Ngoại trừ những căn nhà ven quốc lộ 1, nhà nào cũng có vài ba anh bộ đội đến trú đóng. Bà Thái đang hồi hộp nhìn ra đường thì thấy bốn người lính Cộng Sản đi vào nhà bà. Ba người trẻ mang súng dài tỉnh bơ đến thẳng thềm hiên nhà lớn, cởi ba lô và súng ra ngồi xuống nghỉ. Có lẽ họ đang mệt. Những nhà theo kiểu cổ, trừ khi có cúng giỗ tiệc tùng, ít khi người ta mở cửa nhà lớn. Mọi người trong nhà vẫn vô ra bằng cửa nhà lều. Người thứ tư, một người trung niên mang súng ngắn, tỏ vẻ đã hiểu biết thói tục ở đây, bước tới cửa nhà lều gọi:
- Anh chị Thái ơi, em là Trí đây, anh chị có nhớ em không?
Qua giây phút lo sợ, ngỡ ngàng, bà Thái mừng rỡ bước ra chào hỏi người em họ của chồng. Ông Trí là em con ông cậu ruột của ông Thái, tập kết ra Bắc năm 1954. Sự có mặt của một người bà con trong toán người xa lạ mà xưa nay gia đình bà vẫn coi như là thù địch làm bà Thái đỡ lo hơn nhiều. Bà niềm nỡ săn đón:
- Trời ơi, không ngờ còn gặp lại được chú Trí! Chú khỏe mạnh không? Có vợ con rồi chứ chú? Anh Thái vẫn nhắc đến chú hoài! Sáng ni anh Thái lên phố chúc tết mấy người quen không biết răng tới chừ chưa thấy về!
- Tình hình lộn xộn thế mà anh không ở nhà à? Chị có biết bây giờ anh đi đâu không? Nguy hiểm lắm đó nghe!
- Thôi, ông đi mô rồi ông cũng lo về. Chừ mời chú và mấy anh em vô nhà nghỉ ngơi. Chắc mấy chú cũng đói bụng rồi, tôi dọn cơm cho mấy chú ăn nghe!
Ông Trí vui vẻ tự nhiên bước vào ngồi xuống cái giường lèo:
- Để họ nghỉ ngoài đó được rồi. Còn cơm nước lo chi chị!  Bộ đội bác Hồ đến dân vui, đi dân nhớ, ở dân thương, đến đâu nhân dân cũng lo cho đầy đủ cả làm sao mà đói! Em tới đây mục đích chính là thăm anh chị. Sau nữa là xin cho mấy anh em ở tạm vài hôm. Rồi tụi em cũng phải lo đi tiếp thu những chỗ khác. Anh em đàng hoàng lắm, không có phá phách như bọn lính ngụy đâu! Chị đừng lo lắng chi cả!
- Thôi, chốc nữa nói chuyện tiếp. Chừ chú nói mấy anh em rửa tay để ăn cơm, tôi đi dọn ra đây!
- Cứ thủng thẳng đã chị, à, mấy cháu đi đâu mà chẳng thấy cháu nào hết?
- Khi đêm tụi nó ham chơi thức khuya quá chừ còn ngủ đó chú!
Cơm dọn ra, một mâm thịt chả cá canh phủ phê. Ông Trí cùng mấy chú bộ đội ăn uống rất thiệt tình. Họ vừa ăn vừa huênh hoang nói về những bước hành quân kỳ diệu của họ. Những món ăn khoái khẩu làm cho thực khách càng nói cười vui vẻ cởi mở thêm. Với bà Thái, mấy chú bộ đội cứ một điều thưa mẹ hai điều thưa mẹ rất thân mật. Bầu không khí lo lắng nghi kỵ trong nhà cũng dần loãng đi. Chốc sau, bà Thái vào phòng kêu chị em Liên và Thảng ra chào ông chú họ và mấy anh bộ đội. Cả hai đều đã thức dậy từ sớm nhưng thấy người lạ vào nhà nên cố nằm nín trong phòng. Thấy mẹ gọi, Liên rụt rè đẩy em đi trước.
- Thưa chú! Chào mấy chú bộ đội!
- Ối chao!  Mấy cháu của chú ngoan thế này à!
Lập tức, ông Trí bước lại ôm lấy thằng Thảng mà hôn hít tới tấp. Thằng nhỏ từ khi lên mười tuổi đã xa hẳn kiểu biểu lộ tình cảm nồng nàn thắm thiết đó, đâm ra ngượng ngập, lúng túng, thụ động. Liên trố mắt ngạc nhiên rồi cũng lúng túng thối lui một bước. Liên sợ ông Trí cũng hôn nàng như hôn Thảng. Bà Thái cũng ngạc nhiên cảm động vì cử chỉ của người em họ chồng. Bà mừng vì như thế, những người trong gia đình bà, ông Thái và hai đứa con đi lính chắc không đến nỗi nào. Bà có chút ân hận vì lâu nay nghe chồng mà bà đã hiểu lầm về người Cộng Sản. Tình cảm họ chan chứa mặn nồng như thế mà bảo họ vô tình thì đúng là đặt điều! Mấy chú bộ đội hình như chẳng quan tâm tới chuyện đó. Họ chỉ cười chào lại Liên và Thảng rồi tiếp tục ăn.
Ông Trí vừa ăn vừa nói:
- Anh chị có hai cháu dễ thương quá! Tương lai của đất nước đấy! Bác Hồ nói “kế hoạch trăm năm không gì hơn là trồng người”, đào tạo nuôi dưỡng ở lứa tuổi này thì không chê vào đâu được.
Bà Thái sung sướng hãnh diện cười với hai con:
- Các con nghe chú nói đó, phải gắng học thêm lên nữa!
Bữa ăn gần xong, một anh bộ đội nhìn chiếc xe đạp của Liên rồi khen:
- Chiếc xe trông hết sẩy!
Mọi người đều nhìn theo và thay nhau khen. Liên nghe như vậy vẻ sung sướng hãnh diện lộ ra mặt. Một anh bộ đội hỏi:
- Chiếc xe này của ai mà sang quá vậy mẹ?
Bà Thái hãnh diện trả lời:
- Xe sắm cho cháu Liên đi học đó.  Ở đây lên tới trường Đồng Khánh xa lắm mấy chú!
- Dạ, chúng con cũng có nghe nói đến trường Đồng Khánh Huế nữ sinh đẹp lắm. Nghe nói ở đó cũng có nhiều nữ sinh tham gia mấy đội quyết tử của ta chống ngụy quyền gắt gao lắm cơ!
Ông Trí nhìn Liên hỏi:
- Cháu có thấy hoạt động của mấy đội quyết tử ấy không? Cháu có ủng hộ hay tham gia với họ lần nào chưa?
Liên ngơ ngác ngây thơ trả lời:
- Làm gì có! Cháu chưa bao giờ thấy đội quyết tử nào hoạt động ở trường Đồng Khánh cả.
Ông Trí vội nói:
- Hoạt động mật, người ta không phổ biến đâu!
Một anh bộ đội ngập ngừng trở lại chuyện chiếc xe đạp:
- Được đi chiếc xe như thế chắc thích lắm nhỉ! Cô Liên cho chúng tôi mượn tập đi thử chốc lát được không?
Câu nói bất ngờ làm cho Liên tắt mất vẻ cười. Nàng bối rối đưa mắt nhìn mẹ. Bà Thái vốn biết tính con mình rất cưng quí xe. Bình thường, Liên ít khi cho ai mượn xe huống bây giờ xe mới, mà lại đòi tập nữa mới khó chứ! Tuy thông cảm với con gái nhưng bà cũng nghĩ tới những khó khăn hiện tại của mình. Sợ con làm mất lòng mấy chú bộ đội, bà cười giả lả:
- Tập chốc lát cũng được, nhưng cẩn thận giùm một chút kẻo cháu nó nóng ruột, xe mới sắm chưa đi.
Bà Thái nói thế rồi nhìn ông Trí chờ đợi một câu nói ngăn cản hay một lời dặn nào đó. Nhưng ông Trí chưa nói gì thì mấy chú bộ đội đã hồ hởi nhanh nhẹn dắt xe ra sân. Liên nhăn mặt kéo Thảng ra theo ngồi coi. Ông Trí vẫn ngồi uống nước ăn mứt ở bàn ăn.
Sau khi đã dọn dẹp mâm chén xong, bà Thái đến ngồi đối diện với ông Trí:
- Chú Trí cưới vợ lâu chưa?  Được mấy cháu rồi?
- Em cưới vợ năm 1957, vợ em người Sơn Tây, đã được ba cháu gái, đứa lớn nhất mới 11 tuổi.
- Rứa chú có đem theo vô đây không?
- Giờ thì chưa, nhưng chậm lắm là cuối năm nay. Giải phóng xong miền Nam em phải đem vô chứ.
- Nì, chị em tôi hỏi thiệt nghe, như tôi có thằng Long thằng Đạt đi lính quốc gia có can chi không?
- Thì chị biết mấy cháu ở đâu kêu về là xong. Cách mạng khoan hồng lắm, bác Hồ và Đảng nhân ái lắm chị, chị đừng lo chi cả.
- Như anh Thái trước đây có làm Đại Diện xã nhưng nghỉ lâu rồi có bị tội lệ chi với cách mạng không chú?
- Không sao đâu, chị biết anh ở đâu cứ kêu về là yên chí chứ lo gì!
- Chú bảo đảm cho anh ấy được chứ!
- Được quá đi chứ chị! Anh ấy là anh của em mà! Cái tình nghĩa của phe dân chủ mình nó thắm thiết sâu đậm lắm chị à! Có em đây chị cứ yên chí mà gọi anh về. Bác và Đảng bao giờ cũng thương dân như con đỏ chứ đâu có vô tình vô nghĩa như bọn đế quốc chỉ biết bóc lột, đàn áp, giết chóc mà ngại! Chị phải mọi cách kéo anh về càng sớm càng tốt. Mười đời không rời cánh tay, em lo cho anh ấy lắm. Bây giờ em phải đi họp một chốc. Hi vọng khi em trở lại thì gặp anh ở nhà.
Bà Thái càng ân hận về những hiểu lầm lâu nay của mình. Thế mà bảo con tố cha, vợ tố chồng, thậm chí còn nói đến chuyện chôn sống người nữa, toàn đặt điều hết!
Ông Trí ra dặn dò mấy chú bộ đội mấy lời gì đó rồi đi.
Ông Trí vừa đi khỏi, Liên liền vào nhà với vẻ bực bội, nói với mẹ:
- Mạ nói họ trả xe lại giùm con đi! Họ tập té lên té xuống trầy trợt hết mạ ơi! Xe mới lấy về chưa kịp đi thì gặp như thế thiệt rầu thúi ruột.
Bà Thái giải thích với Liên:
- Họ cũng như khách, người ta tốt với mình mình phải tốt lại! Đừng làm mất lòng họ không hay mô! Cha con đang ở thế kẹt lắm. Họ ở đậu vài bữa rồi họ đi thôi con ơi.
Liên cười méo mó:
- Chợt chạt móp méo nhiều rồi mạ! Khi kia để tết xong rồi lấy về cho rồi!
- Đừng nói nữa con, cầu cho cha con và mấy anh con yên lành là được rồi. Con đậu tú tài xong mạ mua cho chiếc khác. Chừ con ra kêu em vô ăn uống mà ngủ cho sớm.
Nói xong, bà Thái đi thắp một lượt tất cả các bát nhang. Sau đó, bà dọn ra giữa bức phản một mâm bánh thịt và mấy dĩa mứt, lấy lồng bàn đậy lại. Khi trời đã khá chiều, mấy chú bộ đội vẫn thay nhau tập xe như tranh thủ thời gian. Bà Thái tươi cười ra sân nói với họ:
- Mấy chú tập xong đói bụng cứ vô giở lồng bàn có sẵn đồ ăn đó, cứ tự nhiên coi như người trong nhà, đừng ngại chi hết.
- Dạ, chúng con cám ơn mẹ!
*
Một hiện tượng mà người dân không thể nào hiểu nổi là bộ đội Cộng Sản đóng khắp trong xã thế mà trên quốc lộ 1 xuyên qua xã, lính Mỹ dùng xe di chuyển qua lại  đều đều vẫn tuyệt nhiên không có một cuộc đụng độ xảy ra. Rõ ràng là quân hai bên đều trông thấy nhau cả mà! Không biết cái tình trạng này còn kéo dài tới bao lâu nữa?
Bà Thái mỗi ngày mỗi nôn nóng lo sợ thêm. Ông Thái vẫn biền biệt không nghe tin tức. Mấy ký thịt heo, mấy thẩu dưa món, bốn năm con gà choi và bốn ổ trứng gà đã đi trọn rồi. Ban đầu bà cũng tưởng họ ở đậu vài hôm là cùng, nào ngờ cả tuần rồi vẫn không có chi thay đổi. Ông Trí ngày nào cũng đi họp một hai lần. Thỉnh thoảng cũng có vài người đi công tác đâu đó. Mấy chú bộ đội trẻ cứ rảnh rỗi lại thay nhau hành hạ chiếc xe đạp của Liên. Lúc này Liên cũng phó mặc ra sao thì ra, không cần để tâm tới nữa. Những ngày sau này ông Trí luôn luôn thúc giục bà Thái tìm cách kiếm chồng về. “Nếu anh ấy không chịu về, tôi không bảo đảm được”, ông Trí nói.
Rồi một buổi sáng bà Thái thấy toán bộ đội có vẻ nhốn nháo. Hẳn có chuyện gì xảy ra? Họ hấp tấp sửa soạn hành trang. Sau đó ông Trí với hai người vội vã mang cả đồ cá nhân ra đi. Chỉ có chú bộ đội Minh con người trông nghiêm nghị, ít nói ít cười nhất ở lại. Trước khi đi, ông Trí cũng dặn kỹ người trong nhà từ giờ phút này đừng đi đâu hết. Bữa cơm trưa rồi bữa cơm tối bà Thái đều mời Minh cùng ngồi với gia đình nhưng hôm nay thấy anh ta chẳng thiết tha chi đến chuyện ăn uống. Có lẽ anh ta đang có vấn đề căng thẳng trong đầu. Thấy Minh chỉ một mình, bà Thái tò mò muốn gợi chuyện nhưng không thể nào cậy môi anh ta được. Anh ta cứ chăm chú hướng mắt ra đường. Tới chạng vạng vẫn chưa thấy một ai về.
Mãi tới khi thấy mấy bóng đen xăm xăm bước vào ngõ, bà Thái kêu lên:
- À, mấy chú đã về đó rồi!
Nhưng không phải. Hai người đang tiến vào sân cũng mặc đồ bộ đội nhưng đều là người lạ. Họ tiến thẳng tới trước mặt bà Thái nói giọng nghiêm nghị:
- Lệnh của ủy ban, mời ông Thái sang trường học xã họp ngay bây giờ!
Bà Thái lo lắng trả lời:
- Dạ ông Thái nhà tôi đi chúc tết rồi kẹt mô đó tới nay chưa về đến. Có chú Minh ở đây lâu nay biết rõ đó.
- Nếu ông Thái đi khỏi, xin cho cô Liên đi họp thế vậy!
Một trong hai người quay lại nói với tên Minh:
- Đồng chí cũng thu xếp lên đường. Anh em ai còn sót gì mang cho họ luôn!
Bà Thái ngạc nhiên sao không mời mình đi họp thế chồng mà lại mời Liên? Mà những người này sao lại biết tên của Liên?
- Dạ cháu nó còn dại biết chi mà họp với hành! Tha cho cháu có được không?
- Bà hiểu cho đây là lệnh của ủy ban! Xin mời cô Liên ra ngay cho. Chúng tôi không có thì giờ nhiều!
- Dạ thôi được, để tôi đi họp thế cho cháu.
- Không được! ủy ban chỉ mời cô Liên, không mời bà!
Bà Thái đang lúng túng thì ông Trí từ ngoài đi vào. Bà Thái mừng quá đến đón ông lại:
- May quá, có chú về. Mấy anh này mời cháu Liên đi họp, tôi xin đi thế mấy anh không chịu. Nhờ chú nói giùm một tiếng.
- Không được đâu! Ai có việc nấy. Người ta mời ai thì đi nấy, chết chóc chi đâu mà sợ. Tôi cũng đang có việc của tôi đây.
Bà Thái nghe cái giọng của người em họ chồng không còn ngọt ngào lễ phép với mình như những ngày trước đây thì lo lắm:
- Rứa thôi để tôi cùng đi với cháu nghe chú.
Không biết ông Trí có nghe lời bà Thái không. Ông không trả lời mà chỉ lúi húi tìm cái gì đó tại chỗ ông nằm mấy bữa nay. Anh bộ đội truyền lệnh dứt khoát:
- Cô Liên đi một mình được rồi, mời cô ra mau. Còn bà, đừng bước ra khỏi nhà!
Liên mặc bộ đồ bộ màu tím mới may lững thững đi ra. Bà Thái cầm tay con nhưng không nói gì. Từ khi nghe kêu tên mình tới giờ Liên không hề nói một lời. Khi ấy ông Trí có lẽ đã làm xong việc mình, bước lại nói với bà Thái:
- Để nó đi kẻo người ta chờ kìa. Nó là con chị mà cũng là cháu tôi, tôi cũng biết lo cho nó chứ. Nó qua trường học nghe năm điều ba chuyện rồi về có gì mà bịn rịn như ra Hà Nội không bằng!
Bà Thái đứng nhìn bóng dáng mảnh mai của đứa con gái yêu đang theo mấy người bộ đội ra cửa. Bà rưng rưng nước mắt rồi bỗng chạy vụt vào nhà. Chốc sau bà quay trở ra, chạy theo những người đang đi.
- Chú Trí!  Chú Trí ơi!
Ông Trí đang đi quay mặt lui:
- Gì đó nữa?  Lôi thôi mãi!
Bà Thái cầm một cái áo len và một gói hạt dưa trao cho ông Trí:
- Nhờ chú đưa cái áo cho cháu Liên mặc thêm kẻo sương xuống lạnh và gói hạt dưa ni để nó cúp đỡ buồn.
- Chị làm như đưa tiễn con lên tàu. Tôi chịu thua chị. Thôi nghe.
Bà Thái có cái cảm tưởng đưa con lên tàu thật. Trường học chỉ cách nhà bà không tới năm trăm thước mà ngỡ như cách trở quan san. Bà nhìn theo bước chân đứa con gái. Hình như Liên cũng cố tình bước nhín nhín vì sợ chóng hết quãng đường. Khi những bóng người đã khuất hẳn trong màn đêm bà Thái mới trở vào ngồi thừ ra trước thềm cửa. Ông Thái biệt tin cả chục ngày bà không lo lắng bằng việc đứa con gái đang đi họp ở trường học. Khi bà vào nhà thì thấy thằng Thảng đang nằm chèo queo ngủ trên chiếc giường lèo. Bà chụp mấy con muỗi đang bu cắn con rồi ghé ngồi xuống phần giường còn trống dưới chân nó, mỏi mệt dựa nghiêng đầu vào thanh lèo giường, chờ con gái về.
*
Bà Thái bỗng gật đầu một cái rồi tỉnh thức. Thời gian này hay mất ngủ, mệt người, bà đã ngủ gục một giấc khá dài. Bà đứng dậy nhìn đồng hồ: 3 giờ khuya. Bà Thái hoảng hốt chạy lại đánh thức thằng Thảng:
- Dậy con ơi ! Đi với mạ qua coi thử chứ giờ chừ mà con Liên chưa về, họp hành chi lạ rứa! Mạ nóng ruột quá!
Thằng Thảng bừng mắt ngồi dậy nhưng ngại ngùng:
- Đi giờ này hắn bắn chết! Mạ không thấy mấy người chết rồi đó à? Chắc là chị Liên qua ngủ lại nhà dì Sáu chứ gì!
Bà Thái bực bội:
- Tiếc giấc ngủ thì ngủ tiếp đi! Mi không thương hắn thì tau đi tìm một mình.
Bà Thái bưng cây đèn bóng thắp dầu nhỏ bước ra khỏi nhà. Thằng Thảng lật đật chạy theo mẹ. Bưng đèn theo chỉ có mục đích chứng tỏ sự ngay thẳng không mờ ám trong việc đi đêm chứ thật ra lúc đó dù trăng mờ cũng thấy đường được. Khi nhìn được khu vực trường học, bà Thái ngạc nhiên không thấy đèn đuốc chi cả. Bà nôn nóng bước thật nhanh. Ngọn đèn trên tay tắt mất nhưng bà cũng không ngần ngại, càng bước mau hơn.  Bấy lâu nay vẫn có một số bộ đội, cán bộ làm việc ở đây, sao bây giờ chẳng thấy ai canh gác ngăn cản chi cả? Tới gần, hai mẹ con thấy có nhiều ghế bàn để ngổn ngang trước sân trường nhưng tuyệt nhiên không có một bóng người.
- Đi qua nhà dì Sáu ngay!
Nhà dì Sáu cách trường học chừng 100 thước. Hai mẹ con lại lật đật tới nhà dì Sáu, đấm cửa thình thịch:
- Dì Sáu ơi! Dì Sáu ơi! Con Liên có ngủ lại nhà dì không?
Dì Sáu nghe tiếng vội vàng nhảy dậy xô cái cửa cho hai mẹ con vào, không kịp tìm diêm bật đèn, dì nói liền:
- Con Liên không về nhà à, tội nghiệp chưa? Rứa thì họ đem đi rồi, đem đi mô đó không biết. Khi khoảng 1 giờ khuya họ dắt đi hết không còn một người. Hèn chi em có nghe một ông mô đó nói lớn “không bắt được lão thì cũng phải làm cho lão đứt ruột nát gan ra …”. Dám họ nói anh Thái lắm!  Em mới vô nằm được một chút chứ mấy!
Nghe đến đây bà Thái liền nằm lăn xuống nền  nhà mà kêu khóc:
- Trời ơi!  Con tôi nhỏ dại tội tình chi mà đem đi mô rứa hỡi trời!
Thằng Thảng sửng sờ đứng ngây người không phản ứng. Dì Sáu thì hoảng hốt nhào tới ôm bà Thái đỡ dậy và khuyên:
- Bình tĩnh chị ơi, con Liên còn nhỏ dại vô tội họ không làm chi hắn mô mà sợ. Chắc ngày mai họ cũng thả về thôi.
Nhưng bà Thái vẫn tiếp tục lăn lộn khóc lóc:
- Liên ơi là Liên!  Chừ mạ biết con ở mô mà tìm…
Dì Sáu biết lòng thương của người chị họ mình đối với đứa con gái hơn ai hết. Dì cứ ngồi ốm lấy người chị mà an ủi dỗ dành. Dì chẳng buồn đi tìm hộp diêm để châm đèn nữa, dì không muốn bà Thái thấy trên mắt mình cũng có hai ngấn lệ.
*
Khi tình hình đã khá yên, ông Thái mới trở về nhà. Nhưng ông khựng lại khi thấy thằng Thảng ra đón ông không có một nụ cười.
- Mạ mô rồi? Chị Liên mô rồi?
- Chị Liên họ bắt đem đi rồi. Còn mạ khóc từ khi qua nhà dì Sáu tới giờ. Dì Sáu và con mới đưa mạ về hồi sáng. Mạ hiện đang nằm khóc trong nhà.
Mặt ông Thái chuyển sang tái ngắt. Ông đã quá hiểu về những con người Cộng Sản. Ông đau đớn nghĩ tới đứa con gái thơ dại của mình. Thôi, thế là hết. Xưa nay, mỗi khi Cộng Sản đã rớ tới ai thì kẻ đó không mất xác cũng mất hồn. Trên đường về nhà, ông đã nghe tin nhiều người có máu mặt ở thôn xã đã bị chúng bắt đem theo trong khi rút lui. Nhưng ông không hề tưởng tượng rằng đứa con gái của ông cũng chung số phận ấy. Ông đi như chạy vào nhà.
*
Cả mấy tháng sau trong xã hoàn toàn chưa ai được nghe chính xác tin tức về số phận những người bị bắt. Có tin đồn là một số bị giết và một số lại đi theo Cộng Sản. Gia đình ông Thái vẫn hi vọng Liên ngây thơ vô tội chắc không đến nỗi bị hại. Bà Thái không lúc nào quên nghĩ đến đứa con gái mình.  Ngày nào bà cũng thắp hương khấn vái cầu nguyện ông bà giúp đỡ phù hộ cho con mình trở về. Gần như đêm nào bà cũng có khóc. Bà ân hận vì mình không can đảm giữ Liên lại đừng cho đi họp hay ít nhất cũng cương quyết theo chân Liên đến chỗ họp. Không lý người ta dám bắn mình lúc đó? Bà ân hận vì đã quá tin tưởng vào những lời phỉnh gạt của người cán bộ em họ chồng mình. Ngày nào bà cũng vào lau chùi trong phòng Liên và không cho ai làm thay đổi một cái gì hết. Đến đôi tấc, bộ áo quần Liên thay lúc ra đi bà vẫn để chỗ cũ, không đem đi giặt. Lúc này bà hay ngủ tại giường của Liên.
Rồi tin dữ cũng chính thức đến với gia đình ông Thái. Khoảng nửa năm sau, khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phát hiện một số hầm chôn người tập thể do lính bác Hồ thực hiện tại quận Phú Thứ, người ta cho khai quật để cải táng. Trong số nạn nhân, người ta đã chính xác nhận ra Liên. Khi gia đình nhận được tin báo, bà Thái ngất xỉu đi mấy phút. Bà không thể tưởng tượng nổi. Hồi còn trẻ, bà đã nghe mấy người từng chứng kiến kể lại vài vụ chôn sống. Người thì bị đánh cho ngất xỉu rồi đẩy xuống hố mà dập đất lên, đó là lúc người ta muốn giải quyết nhanh. Người thì dùng sức mạnh ép đứng xuống một cái lỗ sâu mà dập đất lên ngang bụng, ngang ngực, hay ngang cổ tùy ý thích của cán bộ lãnh đạo. Những người bị chôn sẽ năn nỉ khóc lóc van xin cho đến khi nào không còn nói được. Phần thân thể bên dưới của người đó sẽ tê dại nhanh chóng dưới sức ép của đất, mạch máu không còn lưu thông được, sau cùng đều chết. Đây là cách giết mà vừa trả thù, vừa thưởng thức. Một cách khác nữa rùng rợn hơn nhiều, gọi là xác chết đội mồ. Người ta đào một cái lỗ cạn, dùng sức đẩy nạn nhân còn đang khỏe mạnh xuống rồi dập phủ kín một lớp đất rất mỏng.  Nạn nhân sẽ ọ ọ lên mấy tiếng giống như bò rống, chỗ đất mới đắp nứt nứt ra rồi cái đầu người phủ đầy đất thò lên tưởng như xác chết đội mồ. Những người chung quanh cứ cười nói thỏa thích chờ cho nạn nhân hồi sức được phần nào rồi áp lại dập đất lần khác. Đến khi nào nạn nhân lã người chịu nằm yên dưới lớp đất phủ là xong. Nghe nói không có nạn nhân nào ngoi dậy được lần thứ ba.  Ngày trước nghe kể như thế nhưng bà đâu có tin!  Bây giờ thì những nạn nhân lại có nhiều người bà từng gần gũi, quen biết, có luôn cả người thân yêu nhất đời của bà nữa! Bà tưởng tượng ra những nỗi đau đớn quằn quại của đứa con gái mình mà rùng mình thon thót. Bất giác bà nhớ tới câu mà theo ông Trí là của bác Hồ, ba mẹ con bà đã nghe trong dịp tết vừa rồi “kế hoạch trăm năm không gì hơn là trồng người”. Con người cả đời hiền lành không biết chửi bới ai một câu bỗng nghiến răng rít lên:
- Mụ cô cha hắn chứ trồng người! Té ra trồng người là chôn sống người!
*
Sau khi cải táng cho con, bà Thái ngã bệnh kéo dài cả năm.
Khi lành bệnh, tính khí bà trở nên thất thường. Nhiều khi bà ngồi cả buổi để nhìn lên bàn thờ người con gái. Hình như đôi mắt yếu kém của bà vẫn nhìn thấu suốt qua tấm vải đỏ phủ trên khung ảnh mang gương mặt ngây thơ bầu bĩnh tươi như hoa của cô gái. Những giọt lệ cứ bò trên đôi má nhăn nheo của bà. Nhiều khi đang làm việc gì bà bỗng ngưng lại, thở dài: Bác Hồ nhân ái lắm, bác thương dân như con đỏ, kế hoạch trăm năm không gì hơn là chôn sống người!
Từ ngày mất Liên, lòng bà Thái cũng mất luôn mùa xuân, mất vĩnh viễn. Có mùa xuân nào nữa mang lại niềm vui cho bà đâu? Càng về già cái tính thất thường của bà càng tăng. Lắm lúc bà quên cả mọi người chung quanh cũng như mọi việc. Nhưng lạ một cái bà vẫn hay nhắc một câu nói cũ và vẫn không lẫn lộn một chữ nào: “bác Hồ nhân ái lắm, bác thương dân như con đỏ, kế koạch trăm năm không gì hơn là chôn sống người!”.
Ngô Viết Trọng 
Lượm lặt từ các nguồn của Blog 16:
Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ước lượng tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600 như sau: 
Bị thương và tàn tật vì bom đạn : 1.900
Thường dân bị chết vì bom đạn : 844
Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến : 1.173 
Nhóm mồ tập thể thứ nhì, luôn cả Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969 : 809
Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Hòa, tháng 9, 1969 ) : 428
Nhóm mồ tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969 : 300 
Ước lượng những mồ tìm rải rác chung quanh thành phố Huế : 200 
Số người vẫn còn mất tích : 1.946
Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế: 7.600
Chú thích của tác giả – tài liệu trên đây lấy từ: 
– SEATO: South East Asia Organization. 
– PAVN: People’s Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South, number currently 105,000.

Khi Người Nông Dân Nổi Giận – Sơn Nam


 Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là Quan.
(Ca dao Vietnam)
Bài đọc suy gẫm:  Trong tuần qua, báo chí cả nước nói về câu chuyện Đoàn Văn Vươn, một cựu quân nhân, kỹ sư nông lâm,  một kỳ tài  vì đã thách đấu cả với trời để khai thác, mở mang thành công mảnh đất sát biển ở xã Bắc Hưng, huyện Tiên Lãng, T.P Hải Phòng.  Bị bọn quan quyền tham lam, cấu kết với tay thẩm phán dụ dỗ gia đình, rút đơn sau đó tráo trở mặt (link Quê Choa) nên anh em Vươn quá uất ức đã vác mìn, súng chống lại cả trăm công an bộ đội. Sau hơn 4 tiếng đụng độ, với tổn thất và nhiều chiến sĩ phải nhập viện (theo báo lề phải).   Lực lượng cưỡng chế mới tiến vào làm chủ được tình hình nhưng người dân đã rút đi… Nhân chuyện về luật đất đai bất cập của nhà nước cộng sản hiện vẫn là vấn đề lớn vì nó tạo ra nhiều khe hở cho bọn chính quyền địa phương lợi dụng, cướp đất của người dân để làm giàu, gây ra cảnh dân oan trên khắp đất nước.  Blog 16 xin hân hạnh gửi đến quý bạn đọc câu chuyện có liên quan đến sự việc khi người Nông Dân cần cù chất phác nổi giận, phản kháng lại bọn cường hào ác bá cấu kết với tham quan ô lại dồn họ vào đường cùng.  Gẫm chuyện xưa tuy cách đây gần cả trăm năm để thấy chuyện thời nay có gì khác?  Câu truyện này còn có tên “Vụ Án Nọc Nạn tại Bạc Liêu năm 1928″, trích biên khảo Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam của nhà văn Sơn Nam.  Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa.
 Một số hình ảnh cưỡng chế.  Câu hỏi là, cưỡng chế đất tại sao phải huy động tới vài trăm công an, bộ đội?
Đích thân giám đốc công an Hải Phòng Trần Văn Ca (trái, tay cầm loa) chỉ huy trận đánh, ông này diễu là trận đánh rất lớp lang , thủy bộ phối hợp nhịp nhàng và trận đánh này (tức nhà nước đánh nhân dân?) nên được biên khảo lại cho hậu thế học hỏi, sic. Lạ thay, khi quân ta vào tận nơi, chỉ có cái nhà trống.   Người dân đã rút đi hết, hiện ông Ca còn đang nghiên cứu họ rút đi vào thời điểm nào và bằng phương thức gì? :) 
Vụ án Nọc Nạn.

Cánh đồng Nọc Nạn thuộc làng Phong Thạnh, quận Giá Lai, tỉnh Bạc Liêu thời Pháp  thuộc. Về nguồn gốc của hai tiếng Nọc Nạn thì chưa ai giải thích thỏa đáng, hoặc là nơi đây  đất thấp, dân muốn cất nhà thì phải xốc nạn theo kiểu nhà sàn. Hoặc là tiếng Miên, nói trại  lại. Cánh đồng này nằm trên đường Bạc Liêu, Cà Mau, với con rạch Nọn Nạn. Vùng này đất  cao ráo và tốt.
Những chiến sĩ quốc gia bấy giờ lên tiếng và theo dõi vì đây là cuộc tranh đấu giữa  người tiểu điền chủ chống cường hào, để giữ lại phần tư hữu tài sản mà chính ông bà họ đã  tạo ra. Không có gì chứng minh rằng họ hành động vì có người xui giục để khuấy động trong  địa phương.
Cuộc tranh đấu xảy ra chỉ vì cường hào địa phương được che chở bằng những luật lệ quanh co và phức tạp của thực dân Pháp.
Nhiều giai thoại truyền khẩu vẫn còn được nhắc nhở, chi tiết lần hồi có thể sai lạc. Chúng tôi căn cứ vào hai nguồn tài liệu căn bản :
— Bài vè Nọc Nạn do tác giả vô danh được truyền tụng, lời lẽ mộc mạc, chi tiết khá cụ thể, lưu hành từ những năm 1930, 1931.
— Loạt bài do ký giả Lê Trung Nghĩa (tự Việt Nam) đăng trên báo La Tribune  Indochinoise do Bùi Quang Chiêu làm chủ nhiệm. Bấy giờ, Bùi Quang Chiêu là chiến sĩ  quốc gia tiến bộ. Ký giả Lê Trung Nghĩa là người gốc ở Phong Thạnh, chuyển xảy ra tại quê quán nên ông hiểu rõ và đến địa phương nhiều lần, giúp gia đình nạn nhân bằng mọi cách,  khác hơn trường hợp một vài ký giả khác chỉ tường thuật đại khái để bán báo.
Báo La Tribune Indochinoise từ ngày 17/8/1928 đến 24/8/1928 đặc biệt dành cho vụ án này với những bài chiếm trọn cả trang nhứt; những số trước đó cũng đã nhắc nhở từng chập.
Bài vè Nọc Nạn chúng tôi không sưu tầm được phần sau, nên ghi phần đầu mà thôi :
Trời Nam thiên hạ thái bình,
Kẻ lo nông nghiệp người gìn bán buôn.
Ngàn năm gió thuận mưa tuôn,
Lúa thì một giạ, giá thì đồng hai.
Nhân dân ai nấy mừng thay,
Rủ đi làm mướn giá rày đặng cao.
Dưới sông, ca—nốt, đò, tàu,
Lộ thì xe chạy, trước thì khách thương…
… Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên,
Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày.
Mậu Thìn vốn thiệt năm nay,
Một ngàn hai tám, tiếng rày nói vang.
Phong Thạnh vốn thiệt tên làng,
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung.
Anh em Mười Chức công khùng,
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan.
Hăm lăm tháng chạp rõ ràng,
Lúc bảy giờ sáng xe quan đến liền.
Chợ đông đương nhóm tự nhiên,
Thấy cò lính lại, người liền đến coi.
Thuốc đạn, súng ống hẳn hoi,
Hai cò bảo lính : “Đòi làng đến đây.
Có trát biện lý bằng nay,
Sai ta xuống rày, đong lúa đương tranh !
Thị Trân là vợ huyện Lành,
Lãnh án đành rành mướn bọn ta đi.
Biện Toại nhà ở chốn ni ?
Làng phải dẫn lộ ta đi đến liền”.
Hai cò bước xuống đò nghiêng,
Bảo làng với lính đi liên một đò.
Phong Thạnh hương quản tên Cho,
Ngồi trước mũi đò, bàn luận gần xa :
“Xuống đây, ắt bọn nó ra,
Dữ lành chưa biết việc mà làm sao ?”
Nước ròng đò xuống đi mau,
Tám giờ đã tới lao xao lên liền.
Cò bảo lính đứng liên liên,
Còn làng phải đứng ra riêng một hàng.
Trong nhà Mười Chức luận bàn,
Than cùng từ mẫu hai hàng lâm ly :
“Dầu con thác xuống âm ti… 

Về những bài báo do Lê Trung Nghĩa viết, chúng tôi sử dụng với sự dè dặt. Bấy giờ có những sự thật mà ký giả biết rõ nhưng không thể viết ra được, vì là cuộc vận động công  khai trên báo chí để cứu nạn nhân.
Lời khai trước tòa án của những nhân chứng hoặc của người trong cuộc phải được hiểu  qua khía cạnh riêng : lắm khi, họ phủ nhận sự thật vì sự thật ấy bất lợi cho họ trước tòa,  hoặc họ biết nhưng lại khai rằng không biết, chưa kể đến những người làm chứng bị mua chuộc bằng tiền bạc.
Trước năm 1900, một nông phu đến khai phá rừng ở rạch Nọc Nạn trên diện tích non  73 mẫu tây. Năm 1908, ông này chết để lại cho con là hương chánh Luông. Đất thì rộng, sức người và vốn liếng có hạn, năm 1910, anh em hương chánh Luông bắt đầu làm việc tích cực  hơn. Đất khai phá phải trải qua hai ba năm đầu không có huê lợi vì cây cỏ còn nhiều, nào  gốc cây, nào đất trủng quá thấp, nạn chuột bọ, heo rừng. Lúc bắt đầu khai phá thì vùng này  hoang vu, thưa thớt dân cư, chẳng thấy ai đến tranh giành cả. Tỉnh Bạc Liêu hẻo lánh, việc  đo đạc ruộng đất để lập bộ rất chậm trễ so với các tỉnh miền trên.
Năm 1910, hương chánh Luông làm đơn xin khẩn chánh thức 20 mẫu và chịu đóng  thuế trên diện tích này. Đơn ấy được chấp thuận và được cấp biên lai.
Năm 1912, họ làm ruộng thêm trên khoảnh đất ấy, canh tác trọn và xin rước kinh lý (trường tiền) đến đo đạc theo luật định, để xin bằng khoán chính thức. Viên trường tiền tên  là Arboratie đến đo đạc, làm phúc trình và chủ tỉnh Bạc Liêu trao cho ông hương chánh  Luông bản đồ phần đất nói trên.
Năm 1916, một người tên là Tăng Văn Đ. đứng ra tranh cản, viện lý do phần đất mà  hương chánh Luông và gia đình đang canh tác là công lao của y một phần nào. Tăng Văn Đ.  được chủ tỉnh đòi đến xử và thất kiện. Tuy nhiên, viên chủ tỉnh lại cho Tăng Văn Đ. một sở  đất nhỏ, cắt ra từ phần đất của ông chánh Luông.
Phần đất của ông chánh Luông gồm 72,95 mẫu, bị cắt cho Đ. bốn mẫu rưỡi tức là chỉ còn lại 68,45 mẫu mà thôi. Để giải quyết vụ này, viên chủ tỉnh nói trên cấp cho hương  chánh Luông một tờ bằng khoán tạm, số 303 đề ngày 7/8/1916.
Ông hương chánh Luông mất.  Biện Toại là con trai lớn của gia đình và các em đành  nhường nhịn và chấp nhận, mặc dầu đất của tổ phụ để lại mất hết 4 mẫu rưỡi. Nên nhớ  rằng bằng khoán cấp cho Biện Toại là bằng khoán tạm.
    Bom (mìn) tự chế của người dân oan.

Tưởng rằng công việc canh tác được yên ổn, dè đâu năm 1917 xảy ra một biến cố khác :  sự can thiệp của một người Huê kiều giàu khét tiếng trong tỉnh : ông bang Tắc, tên thật là Mã Ngân. Ông bang này muốn khẩn đất bằng con đường quanh co nhưn hữu hiệu, ông ta  rành luật lệ và biết rõ những sơ hở.
Số là giáp ranh với phần đất của gia đình hương chánh Luông do Biện Toại là con trai đứng thay mặt, có phần khác do Phan Văn Được làm chủ. Sau khi chết, đất của Phan Văn Được để lại cho vợ hưởng, người vợ này tên Nguyễn Thị Dương. Ông bang Tắc (Mã Ngân) chú ý nhiều vào phần đất của Nguyễn Thị Dương, đến gặp bà này mà trả giá và tìm đến  hương chức làng Phong Thạnh để xem xét lại kỹ.
Hương chức làng Phong Thạnh tiết lộ rằng phần đất của anh em Biện Toại, giáp ranh  với phần đất của Nguyễn Thị Dương đã khai thác xong nhưng chưa có bằng khoán chính thức.
Là người rành luật lệ, ông bang làm giấy tờ mua đất, cho thêm bà Dương chút ít tiền  để trong tờ bán đất ghi rằng “bán phần đất với ranh giới bao trùm luôn khoảnh đất mà anh  em Biện Toại đang khai thác”.
Lập tức, ông bang Tắc tìm cách hăm he, cho anh em Biện Toại biết rằng đất mà họ  đang canh tác là của ông ta, vì ông ta đã mua lại của bà Nguyễn Thị Dương rồi. Lẽ dĩ nhiên,  anh em Biện Toại phản ứng ngay, tìm cách kêu nài lên quan trên rằng bà Nguyễn Thị  Dương đã bán phần đất mà họ đã có bằng khoán tạm cho bang Tắc, và bang Tắc đã lấn đất.
Đơn đã gởi bốn lần đến chủ tỉnh Bạc Liêu và bốn lần lên Thống đốc Nam kỳ, luôn cả  quan Toàn quyền Đông Dương để kêu nài. Nhưng việc khác lại xảy ra.
Năm 1919, bang Tắc lại xúi dục tá điền của ông ta xông qua phần đất của anh em Biện  Toại, đốt một căn chòi ruộng và giết một con trâu để dằn mặt. Nhưng anh em Biện Toại vẫn  không nao núng, tin nơi công lý. Bấy giờ, chủ quận ở Giá Rai là ông phủ H. Theo lời tự thuật của quan phủ này thì khi đến trấn nhậm tại Giá Rai, hay tin có cuộc tranh chấp giữa ông bang Tắc và anh em Biện  Toại, ông ta đã đòi ông bang Tắc tới để phân xử, đề nghị với ông Bang là nên nhân nhượng  chia đất ra hai phần đồng đều, ông bang phân nửa, anh em Biện Toại phân nửa (như vậy là trong thực tế, ông bang đã lấn thêm một phần đất đôi chục mẫu). Quan phủ H. cũng phân trần rằng chính ông đã nhờ hương cả trong làng để đưa đề nghị ấy với anh em Biện Toại, nhưng anh em ông này không chấp nhận sự chia hai đồng đều ấy.
Trong vụ án Nọn Nạn, dư luận đã đổ lỗi cho quan phủ H. Phải chăng quan phủ này  nhận số tiền của ông bang nên đưa đề nghị này ? Nếu là người vô tư, tại sao ông không mời  anh em Biện Toại đến dinh quận để phân giải mà chỉ mời có một mình ông bang ? Quan  phủ thanh minh với dư luận như vậy thì ta tạm tin như vậy.
Cũng năm ấy (1919), quan phủ H. được làm chủ Tịch Hội đồng phái viên để xác nhận  sở hữu chủ của từng sở đất ở làng Phong Thạnh với diện tích chính xác, ranh giới, để chánh  thức cấp bằng khoán.
Mặc dầu anh em Biện Toại khiếu nại nhưng với thế lực của ông bang, với sự hậu thuẫn  của một số người, phần đất của anh em Biện toại lại bị chính thức xem như là đất của ông  bang Tắc. Về sau, ra trước tòa đại hình, Biện Toại vẫn cả quyết đây là vụ ăn hối lộ, luôn cả viên họa đồ là Roussotte cũng ăn vì thoạt tiên, khi đo đạc tên Pháp này cho rằng đất ấy là của Biện Toại, nhưng khi đã nhận tiền của bang Tắc, hắn nói ngược lại đó là của bang Tắc.
Mặc dầu vậy, anh em Biện Toại vẫn cương quyết chống đối. Đất đã mất rồi, họ ở đó mà  chờ… đèn công lý của thực dân Pháp !
Bang Tắc cứ tiếp tục lo hợp thức hóa phần đất chiếm cứ mà Hội đồng phái viên (có ông  phủ H. làm chủ tịch) xác nhận là của chính bà Nguyễn Thị Dương ưu tiên khai khẩn rồi  bán lại cho ông ta. Ngày 13/4/1926, Thống đốc Nam kỳ ký nghị định bán thuận mãi sở đất  50 mẫu với giá 5000 đồng cho Mã Ngân (tên thật của bang Tắc).
Bang Tắc cứ hăm dọa, buộc anh em Biện Toại đong lúa ruộng vì với nghị định trên và với tờ bằng khoán chính thức, anh em Biện Toại đã trở thành tá điền trên phần đất của họ.
Anh em Biện Toại chống đối ra mặt. Bang Tắc không dám làm to chuyện vì ông ta đã  từng dính líu vào vài chuyện rắc rối về pháp lý, nếu sanh sự thêm thì nhà nước thực dân lúc  bấy giờ có thể dùng luật lệ mà trục xuất ông ta về Tàu, cộng với mấy tọi trạng trước. Ông ta  nghĩ ra một biện pháp rất có lợi và rất ôn hòa để thắng đối phương. Ông ta bán sở đất trên  cho một bà rất có uy thế : bà Hà Thị Tr., mẹ vợ của người anh ông phủ H. (vì vậy mà sau này, dư luận cho rằng vụ giựt đất là do phủ H. tiếp tay với bang Tắc một cách đắc lực). bà  này mua xong, bèn đòi thâu địa tô trên phần đất mà anh em Biện Toàn đang canh tác.
Ngày 6/12/1927, bà Tr. xin được một án lịnh của tòa cho phép tịch thâu tại chỗ tất cả lúa mà anh em Biện Toại gặt được. Anh em Biện Toại nghe tin ấy, bắt đầu lo sợ.
Ngày 13/2/1928, lính mã tà tới gặp anh em Biện Toại để thi hành lịnh thâu lúa, anh  em Biện Toại kháng cự.
Ngày 14, tức là ngày hôm sau, lính mã tà lại vô lần thứ nhì. Anh em Biện Toại cũng  chống cự, lính mã tà lại rút lui.
Ngay trong đêm ấy, anh em Biện Toại đoán chắng rằng ngày mai, lính mã tà sẽ đến  với lực lượng đông đảo và thái độ cứng rắn hơn vì là lần thứ ba, sau hai lần cảnh cáo.
Anh em trong gia đình tụ họp lại, làm lễ lạy ông bà. Mẹ là bà hương chánh Luông cũng  được mời ngồi để các con lạy, gọi là báo hiếu lần chót. Anh em bèn trích huyết vào cái tô, thề  ăn thua, không sợ chết. Để thi hành kế hoạch, anh em bày ra chuyện bắt thăm để nhờ vong  linh ông bà chỉ định ai là người đứng ra hy sinh đầu tiên. Lần thứ nhứt, đứa em gái tên  Trọng lại rút nhằm thăm. Anh em không muốn thấy đứa em gái lại đảm nhận sự hy sinh  quá lớn lao nên đồng ý là cho bắt thăm lần thứ nhì.
Và lần thứ nhì này, cũng cô Trọng được lá thăm ấy. Cô Trọng bình tĩnh đứng dậy, bảo  các anh :
— Ông bà đã dạy, em xin liều chết !
Nên nhớ một chi tiết : Trước đó, khi được án tòa và thấy thái độ quá cứng rắn của anh  em Biện Toại, hương chức làng tự ý bắt giam 24 giờ bà hương chánh Luông để hăm dọa.  Biện Toại vì thương mẹ nên hứa sự không chống cự. Nhờ đó, bà hương chánh được về nhà để các con lạy lần chót.
Lúc đến công sở, thái độ của Biện Toại rất buồn rầu.
Lại còn một chi tiết khác : thày hương thân trong làng đã mướn người gặt lúa của anh em Biện Toại, vì lịnh tịch thâu đưa tới nhằm lúc lúa chín. Mười Chức, em Biện Toại đã xin phép vị hương thân để được tự mình gặt lúa nhưng vị hương thân từ chối, hồ nghi rằng  nhân cơ hội ấy Mười Chức có thể giấu bớt lúa. Khi ra tòa, viên Chưởng lý thắc mắc : tại sao  số lúa mà hương chức làng mướn gặt chỉ có 2.080 giạ thay vì 3.500 giạ như phỏng định ?  Phải chăng hương chức làng đã lén ăn cắp bớt số lúa này để xài riêng ? Và nếu lúa gặt được  nhiều, sau khi đong lúa ruộng theo án lịnh tòa mà còn dư lại đủ ăn trong mấy tháng đầu  năm thì anh em Biện Toại chưa ắt tuyệt vọng đến mức, để rồi thảm trạng lại xảy ra !
Biện Toại sống với mẹ và các em trong đại gia đình, số lúa thu hoạch chia ra vẫn là ít. ở xứ Bạc Liêu, mỗi năm gia đình nào cũng phải dư nhiều lúa để bán mà sắm quần áo, thuốc  men, chớ không như ở Tiền giang chỉ cần đủ lúa ăn, còn bao nhiêu món khác trong gia đình  đều mua sắm nhờ hoa màu phụ như vườn dừa, chuối, hoặc chăn nuôi.
Thảm trạng xảy ra vào sáng ngày 16/2/1928. Tìm lại sự thật, nhứt là các chi tiết thì hơi khó khăn. Lính mã tà thì cương quyết đổ tội cho đám anh em Biện Toại (trong giấy thuế thân, ghi sai là Tại). Những nạn nhân trong cuộc thì muốn chứng minh rằng họ chỉ tự vệ.  Một số người trong cuộc đã chết, nếu còn sống thì họ sẽ đưa ra nhiều bằng chứng khác.
 Một số hình ảnh khiếu kiện. Hình dân oan Phú Thị Hương bị công an hành hung ngất xỉu tại Hà Nôi.
Nha Trang.
Kiên Lương
Thái Nguyên
Ô Khảm – Quảng Đông -Trung Quốc 2012.  Những người giàu đang yểm trợ thực phẩm và tài vật.  Hiện đồng bào dân oan đang chuẩn bị kéo lên thành phố.
Đại khái, những nét lớn như sau :
Khoảng 7 giờ sáng, hai tên cò Tây là Tournier và Bouzou cùng bốn người lính mã tà từ  Bạc Liêu đến Phong Thạnh để tiếp tay với hương chức làng mà thi hành lịnh án của tòa, đong số lúa hiện ở trên phần đất của anh em Biện Toại. Hai viên cò này tưởng là chuyện  thông thường, họ không được cho biết là sẽ gặp khó khăn. Tên cò Tournier vừa mua được  cây súng săn nên đem theo, dọc đường anh ta còn lạc quan, bắn thử một phát chết một con  cò. Cùng đi với họ đến đống lúa có hương thân, hương hào và hương quản làng sở tại;
Anh em của Biện Toại cất nhà rải rác hơi xa nhau, sát bờ rạch. Đống lúa thì ở ngoài  ruộng, cách nhà họ chừng 500 thước.
Dọc đường, khi đi ngang qua nhà Biện Toại, hương hào kêu réo để mời chứng kiến việc  đong lúa nhưng không ai trả lời. Nhà cứ đóng cửa. Lập tức, hương hào bèn đến nhà Biện  Toại và đến nhà bà mẹ là bà hương chánh. Chẳng ai chịu đến cả.
Đến gần đống lúa, tên cò Tournier yêu cầu hương chức làng phải mời một người trong  gia đình, thí dụ như một người em của Biện Toại đến chứng kiến việc đong lúa.
Mười lăm phút sau, một cô gái đi ra, hướng về đống lúa : cô Nguyễn Thị Trọng, em của  Biện Toại. Theo sau là đứa cháu gái của Trọng, đứa bé này tên là Tư, 14 tuổi.
Thoạt tiên, tên cò Tournier đuổi cô Trọng, bảo rằng con gái còn nhỏ làm sao hiểu đầu  đuôi cuộc tranh chấp đất ruộng này được ! Viên cò nói là đến đây để trợ giúp hương chức  làng đong số lúa theo lịnh tòa.
Cô Trọng phản đối bằng lời lẽ khẳng khái, trong đó có câu “Chết sống ở đây”. Viên đội  mã tà thông dịch lại. Tên cò Tounier ra lịnh đuổi lần thứ nhứt. Cô Trọng cứ đứng đó, yêu  cầu khi đong lúa xong thì hương chức phải giao cho cô một giấy biên nhận ghi rõ bao nhiêu  giạ.
Tournier trả lời rằng không có chuyện trao biên nhận. Rồi thì Tournier tát tai cô Trọng.
Cô Trọng rút trong áo ra một cây dao nhỏ, loại dao có miếng sặt chận ở trước cán. Cò  Tournier đập một báng súng khiến cô té xỉu. Cò Bouzou bèn tiếp tay, giựt cây dao của cô bà Bouzou lại vụng về khiến lưỡi dao đâm tay ông ta một vết xoàng không đáng kể. Rồi thì lính  mã tà trói cô Trọng để đó.
Đứa cháu nãy giờ đứng ở ngoài xa, khi thấy cô Trọng ngã gục và bị trói, bèn chạy về  nhà, báo động.
Từ trong xóm nhà, anh em Biện Toại chạy ra, mang theo nào là dao mác, gậy gộc. Họ chia ra hai tốp. Tốp thứ nhứt do Mười Chức, em ruột Biện Toại cầm đầu; tốp thứ nhì do thị  Nghĩa, vợ Mười Chức cầm đầu.
Tên cò Tournier ra lịnh cho bọn lính chuẩn bị ứng phó. Tournier bảo một tên lính ra lịnh cho Mười Chức đừng dùng vũ khí.
Mười Chức chạy đến quá gần, cò Tournier bèn bắn chỉ thiên một phát. Nhưng Mười  Chức cứ tiến tới và tên cò lại nhắm ngay Mười Chức mà bắn.
Tuy bị thương rất nặng, Mười Chức vẫn cầm mắc gượng nhào tới, đâm trúng bụng tên  Tournier, rồi cả hai đều ngã xuống.
Anh em của Mười Chức tấn công bọn lính mã tà và tên cò Bouzou. Cò Bouzou rút súng  lục, bắn làm bị thương nặng bốn người. Cò Tournier tuy bị thương nặng nhưng cũng bò lết  lại gần cò Bouzou. Vì bắn không còn một viên đạn, Bouzou bèn giựt khẩu súng lục của Tournier mà bắn tiếp. Một số người bị thương, bị chết. Miều là em rể của Biện Toại giựt  được khẩu súng mút—cơ—tông của Bouzou. Với khẩu súng ấy, Miều chạy ra xa bắn về phía bọn lính mã tà nhưng không gây thương tích cho ai. Lính mã tà cũng rút lui một lượt.
Nhân viên công lực đến điều tra, được biết trong số người “làm loạn” có 5 người đàn ông, 2 người đàn bà và 3 người đàn bà khác không biết tên.
Ngay buổi sáng hôm ấy, Mười Chức và vợ (tên Nghĩa) đều chết, luôn cả người anh tên  Nhẫn cũng chết.
Nhịn (trong giấy thuế ghi sai là Nhịnh, anh của Mười Chức), Liễu (em gái của Mười  Chức) đều bị thương nặng, được đưa tới nhà thương. Liễu còn sống. Ba ngày sau, Nhịn chết.  Tóm lại, về phía gia đình Biện Toại thì có 4 người chết (ba đứa em ruột và một người em  dâu là vợ Mười Chức). Nên chú ý là vợ Mười Chức đang mang thai. Bài vè Nọn Nạn ở đoạn chót kể lại với giọng trầm hùng là “Nămngười đổi một thằng Tây” tức là kể luôn đứa hài  nhi còn trong bụng mẹ.
Về phía đối phương, chỉ có tên cò Tournier chết ngày 17, khi nằm ở nhà thương Bạc  Liêu.
Bọn hương chức hội tề đã nhanh chân bôn tẩu từ khi thấy tình hình quá căng thẳng.
Cô Trọng bị bắt. Biện Toại với con trai là Tía thì ra chợ Bạc Liêu với khẩu súng mà Miều đã giựt được. Ông Biện nộp súng và thưa với nhà nước về chuyện các em bị cò Tây giết. Ông Biện và đứa con bị bắt luôn. Miều thì hôm sau bị bắt. Còn một người duy nhất  trốn thoát là Dậu.
Hoàn cảnh của bà hương chánh Luông thật đáng thương hại : các con của bà đều bị  chết, không chết thì bị bắt. Bà ở nhà một mình.
Báo chí Sài Gòn lúc bấy giờ đua nhau khai thác vụ Nọc Nạn. Ký giả xuống tận nơi điều  tra. Dư luận từ mọi giới, luôn cả giới thực dân đều thuận lợi cho gia đình Biện Toại. Họ bị áp bức quá lộ liễu, họ là tiểu điền chủ siêng năng nhưng bọn cường nào cấu kết với quan lại  tham nhũng đã đưa họ vào đường cùng. Hơn nữa, bấy giờ phong trào quốc gia đang sôi nổi, xu hướng chống thực dân lan tràn, đám táng cụ Phan Chu Trinh vừa xảy ra vào hai năm  trước (1926). Đảng Lập Hiến ra đời, thủ lãnh là ông Bùi Quang Chiêu còn đang hăng hái.  Tuy là theo chủ trương Pháp, Việt đề huề, ông cũng cố gắng làm một chuyện xây dựng mặc  dầu ông phủ H. nối giao cho bang Tắc, là người của đảng ông. Ngoài ra, còn sự giúp đỡ tận  tình của ký giả Lê Trung Nghĩa là cây bút phóng sự của tờ La Tribune Indochinoise do chính Bùi Quang Chiêu chủ trương.
Trong giới trí thức Pháp, nhiều người tiến bộ đã bực mình vì biến cố Nọc Nạn. Ký giả  Lê Trung Nghĩa nhờ hai luật sư rất tận tâm là Tricon và Zévaco biện hộ cho gia đình nạn  nhân, cãi không ăn tiền. Người có chút lý trí phải nhận rằng anh em Biện Toại chẳng mảy  may gì thù oán cá nhân tên cò Tournier cả.
Tòa Đại hình Cần Thơ xửa vụ án này vào ngày 17/8/1928. Ông Rozario ngồi chánh án,  công tố viên là Moreau. Ông Moreau này khá tốt và công bình. Ngoài ra còn một ông hội  thẩm là ông Sự, rất tốt.
Người Pháp đứng trước tình thế gay go. Mặc nhiên, họ đem ra xử những hậu quả của  luật lệ bất công do chính họ ban hành, tức là họ xử cái chế độ của họ. Tha bổng tất cả nạn  nhân thì không được, nhưng lên án thì lên án làm sao ? Chuyện này cả nước đều hay biết.
Trừ báo La Dépêche lIndochine ra thì tất cả báo chí Sài Gòn đều có mặt, theo dõi phiên  tòa : báo LíEcho Annamite, Đông Pháp thời báo, LíImpartial, LíOpinion, Le Courrier  Saigonnais, Le Phare, La Tribune Indochinoise.
Tòa tuyên án như sau : Biện Toại, Nguyễn Thị Liễu (em út của Toại) và Tia (con trai của Toại) được tha bổng. Cô Nguyễn Thị Trọng, 6 tháng tù (nhưng đã bị giam sáu tháng  rồi). Miều, chồng của Liễu (em rể của Biện Toại) : 2 năm tù vì có tiền án ăn trộm.
Đây là bản án rất nhẹ, so với những bản án khác thời thực dân. Qua lời khai của can phạm và những người làm chứng, chúng ta biết thêm những chi tiết quan trọng sau đây :
— Từ năm 1910, Biện Toại đã vào đơn xin trưng khẩn phần đất mà về sau xảy ra tranh  chấp. Bấy giờ, chủ tỉnh có cấp cho biên lai. Nhưng biên lai ấy bị ăn cướp đánh lấy mất, Toại  làm đơn xin bổn nhì. Điều rất lạ là bộ sổ ghi đơn xin khẩn đất ở Bạc Liêu vào năm ấy lại bị mất. Ai làm mất ? Phải chăng là sự cố ý đánh cắp, thủ tiêu hồ sơ trong văn khố cũ, để cường  hào tha hồ tung hoành ! Viên chức ở tòa bố Bạc Liêu lúc vụ án xảy ra là ông phủ Tâm.  Nưhng ông này xác nhận rằng tài liệu cũ bị đánh cắp từ lâu rồi, trước khi ông nhận chức.
— Ông hội thẩm Sự đã nhấn mạnh cho tòa nhớ rằng tiếng Việt khó dịch, thí dụ như mấy tiếng “Chết sống ở đây” mà cô Trọng trả lời với tên cò Tournier. Nếu viên đội thông dịch sai thì viên cò có thể nổi giận. “Chết sống ở đây” có hai nghĩa. Một là “Dầu chết hay  sống, tôi vẫn đứng tại đây, đuổi tôi, tôi không đi đâu hết”. Hai là “Mạng đổi mạng tại đây”.
— Hương thân Hồ Văn Hi xác nhận rằng tên cò Tournier bắn trước, sau đó Mười Chức  mới đâm tên cò. Chi tiết này xác nhận lời đồng bào địa phương đồn đãi cho rằng Mười Chức  là người đầy đủ tiết tháo và chí khí anh hùng : Bị đạn rồi, nhưng còn đủ thần lực và bình  tĩnh để ngã về phía trước mà đâm kẻ thù cho bằng được, đâm rất trúng, rồi mới chịu chết vì bị thương quá nặng !
— Công tố viên Moreau lưu ý với tòa : Có thể là viên thơ ký lãnh trách nhiệm ghi nhận  đơn xin khẩn đất hồi năm 1910 đã trao cho Biện Toại một biên lai nhưng không có đánh số,  với dụng ý dành phần đất ấy cho người khác.
— Lâm Văn Kiết từng có chân trong Hội đồng phái viên đã xác nhận với Hội đồng :  Phần đất tranh chấp là của Biện Toại khai khẩn trước tiên. Công tố viên bèn nói tiếp : Lâm Văn Kiết chỉ là hương chức làng, làm sao dám cãi lại ông phủ (ám chỉ ông phủ H., người  theo phe của bang Tắc).
— Tri phủ Ngô Văn H. khai rằng mặc dầu thấy có tranh chấp về đất đai, nhưng hồi  năm ấy với danh nghĩa là chủ tịch Hội đồng phái viên, ông ta đành buông trôi vì đo lại ranh  rấp đất đai là vấn đề phiền phức. Viên họa đồ đã tốn công đo đất ở làng Phong Thạnh suốt 3 năm rồi. Công tố viên bèn quở trách cho rằng vì công lý không thể viện lý do là mất thời giờ,  nếu thấy bất công là phải đo đạc, xem xét ranh đất trở lại. Công tố viên nói thẳng : lề lối của phủ H. trong lúc làm chủ tịch Hội đồng phái viên thật là bừa bãi, vì phủ H. bừa bãi nên xảy  ra vụ án bi thảm này.
Bị luật sư chất vấn, phủ H. đành thú nhận rằng chính anh của ông ta chớ không phải ông ta là người đang hùn vốn với bang Tắc để khai thác hai chiếc tàu đò đang chạy trên  đường Bạc Liêu, Cà Mau mang tên là tàu Hồ Nam và Hồ Bắc.
— Khi bang Tắc (Mã Ngân) ra làm chứng, ông ta bảo rằng khong hối hận gì cả. Viên hội  thẩm hỏi Mã Ngân : “Dân chúng cho rằng đáng lý ra ông phải chết thay cho viên cò  Tournier”. Mã Ngân nín, không trả lời.
— Qua lời khai của bà Hồ Thị Tr., công chúng thấy có sự sắp sặt của bang Tắc để bán lại cho bà ta phần đất tranh chấp, vì ba ta đủ sức ăn thua công khai hơn. Mã Ngân muốn  phủi tay.
Trước khi buộc tội, Công tố viên Moreau yêu cầu Tòa nên thận trọng trước khi phán  quyết. Công tố viên nhắc lại rằng vụ này xảy ra sau vụ án Ninh Thạnh Lợi hồi năm ngoái.  Vụ này chứng tỏ dân chúng đang sống trong tình trạng căng thẳng và vấn đề đất đai là chuyện nghiêm trọng. Người ta có thể xúc phạm bất cứ chuyện gì, nhưng nên tránh xúc  phạm tới điền thổ. Mã Ngân chỉ là người mua đất để cho tá điền mướn lại, trong khi Biện  Toại là người đích thân canh tác. Công tố viên trách cứ bà Hồ Thị Tr. là giàu có (tài sản ước  từ 2 đến 300.000 đồng lúc bấy giờ) mà quá nhẫn tâm đòi tịch thu tất cả lúa gặt hái được của  Biện Toại lại còn đòi thêm một số tiền khác. Công tố viên bảo rằng hoàn cảnh của Biện Toại  thật là khốn nạn : Những người không tình cảm đến giựt đất, rồi bọn quyền thế lại tiếp tay với bọn người sang đoạt. Công tố viên Moreau yêu cầu Tòa :
— Tha bổng Biện Toại và con là Tia.
— Cho cô Trọng được hưởng trường hợp giảm khinh (ra trước Tòa cô Trọng cứ chối là  không có cầm dao, mặc dầu đủ bằng cớ).
— Cho Miều (em rể của Biện Toại) được hưởng trường hợp giảm khinh, mặc dầu Miều  đã ba lần bị can án ăn trộm.
— Tha bổng cô Liễu (em Biện Toại, vợ của Miều) vì thiếu bằng cớ.
Luật sư Tricon đứng lên biện hộ, đại ý nhận định đây chỉ là vấn đề điền địa. Ông cho  rằng chánh sách trưng khẩn ruộng đất hồi thời nhà Nguyễn thật là công bằng và thích hợp với thực tế, trong khi những luật lệ về trưng khẩn đất đai do người Pháp đặt ra chưa được  hoàn hảo có thể gây nhiều rắc rối lúc áp dụng vào thực tế. Thời gian quá kéo dài, từ khi đương sự được tạm cấp đất đến khi được cấp vĩnh viễn; vì vậy mà xảy ra cưỡng đoạt, gian  giảo. Những người trong Hội đồng phái viên chỉ ngồi tại chỗ, không chịu bước chân xuốn  bùn mà tới sở đất để xem xét. Họ quyết định theo ý kiến cho những người lương thiện hoặc kém lương thiện báo cáo lại.
Luật sư Tricon kết luận đại để :
— Biện Toại đã tranh đấu với rừng rậm để khai phá và tranh đấu với tử thần. Sau một  ngày làm lụng khổ nhọc, anh em trở về chòi, sau khi ăn cơm, họ cho rằng chết có lẽ sướng  thân hơn là sống trong hoàn cảnh nhọc nhằn. Sau khi tranh đấu với tử thần (có lẽ luật sư muốn nói tới bịnh rét rừng), anh em trong gia đình lại còn phải tranh đấu với những người  khác, tức là bọn người chỉ biết có đồng tiền, làm giàu bằng thủ đoạn sang đoạt. Sau khi tranh đấu với bọn người nói trên, họ còn phải tranh đấu với thủ tục pháp lý. Chúng ta,  những người Pháp, nên xây dựng ở xứ này một chế độ độc tài. Không phải độc tài bằng sức mạnh của súng đạn, nhưng là sự độc tài của tình cảm cao đẹp.
Luật sư Zévaco đứng lên biện hộ, ca ngợi lời buộc tội của Công tố viên, vì Công tố viên  đã lưu ý đến sự thật, đến công lý và cả lòng nhân đạo. Luật sư phân chia ra hai vụ án, vụ tranh chấp điền thổ và vụ án giết người.
Luật sư cho rằng chánh sách của nhà nước thì tốt, nhưng nhiều người thừa hành xấu  đã làm cho chánh sách trở nên xấu đối với dân chúng. Việc cai trị trở thành xấu nếu các  quan phủ (chủ quận) là người ác độc. Sau khi xảy ra thảm trạng, có lẽ nhà nước nên nói  thẳng với Mã Ngân : “Chúng tôi trả lại cho ông số tiền 1.080 đồng mà ông đã xuất ra theo  giá của nhà nước để mua phần đất của Biện Toại. Và xin ông để nhà nước được yên”. Luật  sư nhắc lại ý kiến của Công tố viên là muốn cho bộ máy cai trị có lề lối đứng đắn thì phải sa thải những kẻ bất lương. Luật sư nói thêm rằng : Đuổi những tên bất lương ở cấp dưới cũng  chưa đủ, phải đuổi những người ở cấp cao hơn mà bấy lâu nhà nước đã tin cậy. Nên sa thải vài ông phủ, ông huyện bất hảo. Chúng ta đã thấy rõ hành động của cặp bài trùng : Mã Ngân cấu kết với một ông phủ chủ quận. Tên chánh phạm của tấn kịch đẫm máu này chính  là phủ H.
Trạng sư Zévaco cũng xin tòa tha thứ cho các bị can và lên tiếng : Xin qů ngài đừng  đưa ra một bản án nghiêm khắc, một bản án được luận ra vì phẫn nộ. Bởi vì những người  nông phu khốn nạn này mai đây cũng sẽ bị trừng phạt khá đầy đủ rồi, khi họ trở về tới nhà.  Thừa phát lại sẽ tới để tịch thâu số lúa của họ, và lần này, quý tòa có thể tin rằng không  bao giờ xảy ra vụ nổi loạn nữa đâu. Thưa quý tòa, lần này sẽ có một bà lão khóc về cái chết  của bốn đứa con. Bốn người này đã chết, vì họ tưởng rằng có thể tự lực gìn giữ phần đất  ruộng mà họ đã từng rưới mồ hôi và máu của họ trên đó.
Một số người Pháp ở Cần Thơ và ở vài tỉnh lân cận đã đến xem phiên tòa gay cấn này,  họ tỏ ra hài lòng với bản án. Vài người ở Phong Thạnh xin gặp những người bị tội và xin  phép cho tội nhân ăn bữa cơm với thức ăn đem sẵn.
Một tiệc bày ra tại Cần Thơ để thết đãi hai vị luật sư và ký giả của các báo Pháp và  Việt, do một số đồng bào ở Phong Thạnh và một số nhân sĩ như các ông Huỳnh Minh Chí, Nguyễn Duy Biện, Nguyễn Viết Trọng ở Giá Rài, ông Bùi Văn Túc ở Long Điền. Nên hiểu  đây là thói trung hậu và hào hoa cố hữu của dân Bạc Liêu xưa nay. Một đại diện đứng lên  cám ơn hai luật sư và bà hương chánh Luông cũng đến cám ơn họ.
 Sơn Nam – Trích Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam.

Anh Vươn đang đối diện với thứ luật pháp nổi tiếng rừng của cộng sản. Biếm hoạ Đàn Chim Việt.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

CheVietNam

ChimBaoBao

QuêChoa


Nhớ Ơn Tổng Thống Václav Havel – Nguyễn Kim Phụng


 Cựu Tổng Thống Václav Havel 1936- 2011.
Bài đọc suy gẫm: Nhớ Ơn Tổng Thống Václav Havel hay Cựu Tổng Thống Václav Havel và người Việt Nam của tác giả Nguyễn Kim Phụng. Có thể nói đây cũng là nhật ký của người Việt tại Cộng Hòa Séc (Czech Republic) kể lại  một giai đoạn lịch sử thay đổi quan trọng về việc khối cộng sản tan rã tại Âu Châu, đồng thời nói lên sự biết ơn đối với Cựu Tổng Thống Václav Havel.  Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa.

  
Người Việt tại Brno tiễn biệt cựu Tổng thống Václav Havel 

Lời giới thiệu: Vaclav Havel sinh ngày 5 tháng Mưòi 1936, tại Prague, Tiệp Khắc. Cha của ông là một thương gia giầu có. Khi cuộc đảo chánh do những phần tử được Moscow hỗ trợ nắm quyền Czechoslovakia vào năm 1948, gia đình ông bị liệt vào danh sách “kẻ thù của giai cấp”, và bị tịch thu tài sản. Bản thân ông, bị cấm không được học quá chương trình tiểu học. Ông học xong trung học một cách lén lút, vào ban đêm, trong khi ban ngày làm chuyên viên phòng thí nghiệm. Bị bác đơn xin học ngành nghệ thuật, ông học kinh tế tại Đại học Kỹ thuật Czech. Sau khi tốt nghiệp vào năm 1957, phục vụ quân đội trong hai năm.
Nhà soạn kịch, chính trị gia, nhà đối kháng, ly khai và tranh đấu cho nhân quyền. Bị bắt 4 lần, trải gần 5 năm trong tù, 1977-89. Được dân bầu làm tổng thống Tiệp (Czechoslovakia), 1989; và bầu làm tổng thống Cộng Hoà Czech Republic (1992).
Thập niên 1960, ông sáng tác những bi hài kịch theo kiểu Kafka, nhằm chỉ trích sự phi lý của chế độ thư lại cộng sản. Trong vở kịch dài “The Garden Party” (1963), những nhân viên nhà nước cộng sản đã không làm sao phá huỷ được chế độ thư lại, chỉ vì không làm sao giải được ngôn ngữ mật mã mà nó sử dụng. Thời kỳ đen tối ngay sau khi xe tăng Liên Xô giập nát “Mùa Xuân Prague 1968″, lợi dụng chút tự do ngắn ngủi, ông viết hai vở kịch mang tính hiện sinh, “The Conspirators” và “The Mountain Hotel”.
Thời gian dài sau đó, tiếp theo sau cuộc xâm lăng của Liên Xô, ông quay qua viết chui, với những tác phẩm như Phỏng Vấn, “Interview” (1975), Một Cái Nhìn Riêng Tư, “A Private View” (1975), và Phản Đối, “Protest” (1978). Nhân vật là chính ông, có cái tên là Vanek ở trong những vở kịch kể trên, một nhà ly khai, và nhà văn, bị nhà nước bách hại. Những vở kịch trên đều được trình diễn trong bí mật.
Bà vợ của ông mất vì ung thư, tháng Giêng 1966. Bản thân ông cũng đã trải qua những cuộc điều trị ung thư phổi….
Hình: Cố Tổng Thống Václav Havel và Đức Cố Giáo Hoàng Jean Paul Đệ Nhị và Đức Dalai Lama
Cố Tổng thống Václav Havel và người Việt Nam
Nguyễn Kim Phụng
  Vai trò của cố Tổng thống Václav Havel với người Séc ra sao, với thế giới thế nào, đã có nhiều báo chí và các phương tiện truyền thông đăng tải. Trong bài viết này tôi chỉ muốn nói đến vai trò và tầm quan trọng của Ngài với người Việt Nam đang sống, học tập và lao động tại nước CH Séc.
***
Điều đầu tiên phải khẳng định là nếu không có cố Tổng thống Václav Havel thì tôi cũng không đang ngồi đây và viết bài báo này, bạn thì cũng không đọc nó và nhiều người khác, trong cộng đồng người Việt Nam tại Séc (chắc cũng vào khoảng 60-70 ngàn người) , cũng không có dịp được hưởng một cơ chế tự do như hiện nay, mà có thể đang „kéo cày thay trâu“ ở một cánh đồng nào đó hay đang làm thuê cho một công ty nào đó của ông chủ Hàn quốc, Nhật quốc hay Trung quốc tại Việt Nam. Tôi xin nhắc lại một số điểm chính theo dòng thời cuộc. Vào những năm 1985-1988, thế giới vẫn chia làm hai phe rõ rệt – phe các nước xã hội chủ nghĩa và phe các nước tư bản chủ nghĩa. Lúc đó người ta vẫn nói đến các nước thứ ba, thực chất các nước đó, hoặc là theo định hướng tư bản, hoặc là theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chứ thực ra làm gì có ai đứng giữa! Sau khi Ngài Goóc Ba Chốp lên nắm quyền ở LBCHXHCN Xô Viết (Liên xô), với sự hiểu biết sâu sắc về thời cuộc, với tính nhân văn sâu đậm, ông đã quyết định cải tổ và đổi mới và điều quan trọng nhất là thay đổi hệ thống chính trị. Ông Goóc Ba Chốp đã hiểu, rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ là giấc mơ và không hiện thực, rằng chủ nghĩa xã hội thực chất là một sai lầm lớn của loài người, rằng với sự ngu dốt kèm theo sự độc đoán của những người „mang danh cộng sản“ không thể đưa xã hội loài người tiến lên phía trước được, vì thế ông đã „hy sinh“ quyền lợi cá nhân của mình, quyền lợi riêng của một lớp người khoác áo „cộng sản“ và chấp nhận thay đổi hiện trạng đang tồn tại trên thế giới này. Với quyết tâm „không can thiệp vào nội bộ của các nước khác“, ông đã để cho lịch sử tự chuyển mình theo dòng thời cuộc. Vào thời điểm năm 1989, những mâu thuẫn sâu sắc trong nội bộ các nước cộng sản, sự trì trệ trong phát triển kinh tế khiến cho xã hội tại các nước cs đã tụt xuống đáy cùng. Không hiếm trường hợp, dân chúng tại các nước cs bị đói ăn, thiếu mặc (ở VN đang thi hành chính sách bù giá vào lương – người Việt nói lái thành „bù đá vào lưng“ – người kỹ sư như tôi lúc đó ở Việt Nam làm không đủ nuôi bản thân chứ đừng nói gì đến chuyện nuôi vợ, nuôi con!).

Hình trên: Cố Tổng Thống chào mừng dân chúng. 
Dưới: Hình chụp với ban nhạc Rốc “Hòn Đá Đang Lăn” của Mỹ- The Rolling Stone với thông điệp: REALIZE, WITHOUT FREEDOM & HUMAN RIGHTS YOU ARE NOT ALLOWED TO MAKE MUSIC AND SING WHAT AND HOW YOU WANT !!!“(tạm dịch:” bạn không thể nào sáng tác nhạc và hát bất cứ gì bạn muốn nếu không có Tự Do và các quyền căn bản của con người).
  Nhân chuyện này chúng ta nhớ tới nhạc sĩ Việt Khang vừa bị cộng sản Việt Nam bắt giam tại Mỹ Tho vì sáng tác những bản nhạc đầy tình yêu nước như “Việt Nam Tôi Đâu” và  “Anh Là Ai?”.  Link You Tube:  http://www.youtube.com/watch?v=R4L1grczk6E
Nhạc Sĩ Việt Khang
Khởi đầu là dân chúng nước Đông Đức, một tủ kính trưng bày của phe XHCN – nhiều „tiền của“ của cả phe dồn vào đây để thế giới nhìn vào, để phe XHCN khoe khoang, rằng CHXN cũng tốt đẹp đấy chứ, cũng phát triển đấy chứ!, đã ùn ùn đổ vào các sứ quán của các nước khác để „tị nạn“. Nước Đông Đức, lúc đó ông Hô – Nếk – Cơ đang cầm quyền (TBT đảng CS), đã nhờ Liên xô can thiệp, xong đã bị ông Goóc Ba Chốp phớt lờ. Hàng ngàn người Đức ập vào sứ quán Tây Đức tại Tiệp khắc, tại Hung Ga Ri…khiến tình hình chính trị, xã hội của các nước phe XHCN trở lên căng thẳng và rối tinh rối mù. Bản thân chính quyền Tiệp Khắc (lúc đó do ông Husák lãnh đạo) đã đành phải tổ chức một đoàn tàu hỏa đưa dân Đông Đức đi qua Tây Đức. Đến tháng 11 năm 1989, sinh viên và giới trí thức tại Tiệp khắc đồng loạt xuống đường biểu tình đòi thay đổi thể chế chính trị tại đây. Ban đầu, chính quyền cs Tiệp Khắc đã cho cảnh sát, quân đội đàn áp biểu tình. Thay vì nghe lệnh chính quyền, những „viên chức mẫn cán của chế độ cộng sản thối nát“ đã quay sang ủng hộ dân chúng. Đến cuối tháng 11, biết không thể thay đổi được xu thế thời cuộc, ông Husák đành phải tuyên bố từ chức và trao quyền lãnh đạo cho người khác. Người lãnh đạo tạm thời đã tuyên bố tổ chức tổng tuyển cử và như ta đã biết, cố tổng thống Václav Havel, người được thế giới biết nhiều qua „Hiến chương 77“ đã thắng cử và được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Liên bang Tiệp Khắc (hậu cộng sản) – Cần biết là vị Tổng thống đầu tiên của liên bang Tiệp khắc (không cộng sản) là cố TT T.G Masaryk. Sau khi lên cầm quyền, cố Tổng thống Václav Havel cùng với những người trong „Diễn đàn công dân“ đã thành lập chính phủ – vị Thủ tướng đầu tiên là Václav Klaus, hiện là TT nước CH Séc. Chính phủ mới cùng Quốc hội mới đã ban bố luật mới – một bộ luật dân chủ, đầy tính nhân quyền.
Ban đầu, nhiều người Việt nam đã bỏ chạy sang Tây Đức vì sợ bị „phủi“ đánh (sau khi nhậm chức TT, Václav Havel đã ban bố lệnh ân xá và thả thù nhân, trong đó có rất nhiều tội phạm). Chính phủ mới đã „không ra lệnh trục xuất người Việt nam (đang học tập và lao động tại đây) về nước. Ngược lại, nhờ chính sách cho tự do kinh doanh, những người Việt Nam, có đôi chút hiểu biết, đã kịp thời xin giấy phép kinh doanh hoặc thành lập công ty, nhờ đó đã „trụ lại được ở đây“. Khi tình hình xã hội đã bắt đầu ổn định, từ năm 1991, những người „bán trụ lại“ đã làm giấy mời (gia đình, bạn bè) hoặc xin giấy phép lao động (cho người cùng làm công ty) tạo điều kiện để đưa người nhà, bè bạn sang Séc.
Cũng cần phải nói, rằng giai đoạn 1991-2001 là thời kỳ „cơn mưa vàng“, không những cho các doanh nghiệp người Séc mà còn cho đại đa số người Việt đang sống tại đây. Chính nhờ chính sách thông thoáng và nhân đạo của nước Séc, hàng chục ngàn người Việt nam, từ hai bàn tay trắng hoặc vốn liếng „đủ mua một chiếc xe babeta“, đã trở thành triệu phú. Hàng ngàn người Việt đã đưa được cả gia đình, cả „họ hàng hang hốc“ sang đây, thoát cảnh „sáng lo bữa trưa, trưa lo bữa tối“.
Các trẻ em Việt Nam tại Séc 

 
Thế hệ ba của người Việt Nam tại Séc

Có thể nói một cách không ngoa, rằng nếu không có cố Tổng thống Václav Havel lên cầm quyền năm 1989, hàng trăm ngàn người Việt nam sẽ không biết thế nào là „miếng ăn ngon“, không biết thế nào là „mặc đẹp“ chứ chưa nói gì đến mua nhà mua cửa, đi xe X nọ X kia. Cộng đồng người Việt nam hiện nay ở đây (chỉ trừ những người hiểu biết quá ngắn) vì thế hãy ghi nhớ lấy công ơn của cố Tổng thống Václav Havel và bằng những việc làm cụ thể của mình để quan hệ của cộng đồng VN tại đây với xã hội Séc „càng ngày càng gắn bó“. Thay cho lời viếng, đây là những lời tâm huyết của một người đã được „ơn“ của nhân dân Séc, đã được sống, học tập tại đây, đã được hưởng nhiều điều tốt đẹp của chế độ dân chủ!
Kỹ sư Nguyễn Kim Phụng – cựu sinh viên trường đại học bách khoa Praha – Tiệp Khắc (ČVUT)

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:


Tổng Thống Xin Lỗi – Anne Khánh Vân


Bài đọc suy gẫm: Tổng Thống Xin Lỗi hay Chuyện Nước Mỹ, Chuyện Việt Nam của Anne Khánh Vân, người đoạt giải thưởng Viết Về Nước Mỹ về viết văn hay nhất trong năm -do Việt Báo Nam California tổ chức. Nhân dịp năm mới 2012.  Mười Sáu mời các bạn cùng chia xẻ với tác giả bài đọc lý thú này, cùng thân chúc các bạn đọc, thân hữu một năm gặt hái, bội thu từ những niềm tin của mình. Hình ảnh chỉ có tính cách minh họa.

Chuyện Nước Mỹ – Chuyện Việt Nam


Anne Khánh Vân
Tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2007.  Sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp, Anne Khánh Vân hiện sống và làm việc cho một công ty quốc tế tại Virginia. Bài mới nhất của cô là những ghi nhận có nhiều chất thời sự.
***
“Cold beer, warm words” – “Bia lạnh để đưa lời ấm áp” là nhan đề của nhiều bài báo Mỹ hôm 30 tháng 7, 2009, tường thuật buổi gặp gỡ giữa Tổng thống Obama, giáo sư da màu nổi tiếng của đại học Harvard: Henry Louis Gates, và vị trung sĩ cảnh sát da trắng nhiều thâm niên và thành tích: James Crowley.  Sở dĩ phải đưa lời ấm áp là vì chính Tổng thống Obama lỡ lời.
Tổng Thống da màu Barack Obama (phải) , Phó Tổng Thống da trắng Joe Biden (trái, aó trắng)vui vẻ cụng ly với ông cò da trắng James Crowley (giữa, cà vạt đỏ) và ông giáo sư da màu Henry Louis Gates (trái,ngoài cùng).
Ông giáo sư da màu vừa bay từ bên Tầu về nhà. Ổ khoá cửa trước bị phá hư. Ông và người tài xế phải cạy cửa sổ trèo vô nhà. Một bà qua đường thấy khả nghi, mở cell phone gọi. Cảnh sát đến, ông giáo sư danh tiếng không chịu ra trình giấy, bị còng dẫn về bóp, nửa buổi rồi thả.
Chuyện chỉ có vậy nhưng truyền hình báo chí ầm ĩ.  Sau đó, trong một buổi gặp gỡ giới truyền thông, thình lình bị hỏi về chuyện này, Tổng Thống Obama lên án phía cảnh sát là “hành động ngu xuẩn” (acted stupidly) dù chính ông đã xác nhận chưa thật sự hiểu rõ chi tiết sự tình.
Nội vụ được làm rõ: Khi đến nhà giáo sư Gates, ông cò James Crowley không đi một mình mà còn hai ông cò đồng nghiệp: một ông gốc Phi châu và một ông gốc Mễ.  Biện pháp hành xử nghiệp vụ được thực hiện đúng luật. Và phía cảnh sát lên truyền hình, với đủ màu da đứng bên nhau, đòi Tổng Thống xin lỗi.
Chiều tối xong việc, ông cò James và bạn bè kéo nhau vô một quán bia.  Đang nhâm nhi thì điện thoại sở gọi: Hãy sẵn sàng. Mười phút nữa Tổng Thống sẽ điện thoại.  Tin được loan ra, cả quán bia cùng “wao” rồi yên lặng chờ đợi.  Đúng là Tổng Thống đích thân gọi, đích thân nhận lỗi lỡ lời và thăm hỏi.  Biết James đang trong quán bia, ông hẹn một chầu bia làm lành ở Bạch Ốc. Và màn “Beer Summit -Thượng Đỉnh Bia” thành hình.
Một chiều Thứ Năm đẹp trời, sau giờ làm việc, vị Tổng tư lệnh của quân lực Hoa Kỳ đóng vai “batender-in chief / tổng tư lệnh quầy rượu,” khui bia cho các vị khách.  “Chỉ có bia thôi. Không thượng đỉnh gì hết.”  Tổng Thống da màu Barack Obama nói, và cùng Phó Tổng Thống da trắng Joe Biden vui vẻ cụng ly với ông cò da trắng James Crowley và ông giáo sư da màu Henry Louis Gates.
Sau 40 phút “Cold beer, warm words”, vị “chủ xị” nói trước khi tiễn khách: “I have always believed that what brings us together is stronger than what pulls us apart.”  Tôi luôn tin là những cái mang chúng ta đến gần nhau mạnh hơn cái đẩy chúng ta tới chỗ chia rẽ.” Ông còn nhấn mạnh thêm rằng vụ bia lạnh đưa lời ấm áp này là bài học đáng giá (“teachable lesson”) nhắc nhớ mọi người, đặc biệt những người khác màu da –trong đó có chính ông– hãy nên biết lắng nghe nhau, cư xử tử tế với nhau và chớ vội vã trong hành động, lời nói.
Khi chia tay, ông cò Crowley và ông giáo Gates hẹn sẽ còn gặp lại để trò chuyện. Sau đó ông giáo sư Gates gửi tặng hoa hồng cho người phụ nữ đã gọi cảnh sát khi thấy ông cố tông cửa vào nhà. Bà ta chỉ vì muốn bảo vệ an toàn cho ngôi nhà của ông mà sau đó bị nhiều người trách móc “chỉ tại cú phone của bà mà to chuyện.”
Là một người dân mọn hay một vị Tổng thống, ai cũng là con người, ai cũng có những khuyết điểm, ai cũng có thể phạm sai lầm.  Điểm đáng chú ý ở đây không phải là ai đúng, ai sai, ai hay, ai dở… mà là sự thẳng thắn nhận sai và trực tiếp dàn xếp xin lỗi, dù người lỡ lời có là một Tổng thống.
Việc mời giáo sư Gates và cảnh sát Crowley vào Bạch Cung uống bia lạnh, nói lời ấm áp tượng trưng cho văn hóa Hoa Kỳ: Thẳng thắn và phục thiện.  Nhờ vậy, không chỉ riêng sự hiềm khích giữa hai cá nhân khác màu da được mau chóng hàn gắn, mà lòng dân cả nước được xoa dịu, củng cố.
Có phải chỉ ở Mỹ mới có những chuyện như thế này?  Có phải chỉ dân chúng Mỹ mới dám đòi Tổng thống phải xin lỗi nếu Tổng thống làm sai?  Và có phải chỉ ở Mỹ mới có ông Tổng thống đủ “dũng khí” nhìn nhận với dân chúng rằng điều mình nói là sai và mạnh dạn xin lỗi?
Còn Việt Nam hiện nay thì sao?  Chán vạn cái sai của lãnh đạo đã được dân chúng và cả báo chí truyền thông của chính chế độ đề cập tới. Hậu quả ra sao?  Chỉ là các biện pháp trù dập, đóng cửa, cất chức, đuổi việc, đi tù.
Tôi chỉ ngu ngơ nghĩ, nếu người lãnh đạo Việt Nam có được cái dám nghe và dám sửa những cái sai của họ, đất nước chúng ta sẽ dần dà biến mất sự giả dối, lường gạt lẫn nhau. Từ căn bản này, sự tin tưởng và kết hợp giữa người dân và các cấp chính phủ mới mong tạo được sức mạnh thực sự.  Ai có muốn ăn hiếp hay xâm lăng, cũng không dễ!
***
Không đầy một tuần sau vụ “cold beer, warm words,” ngày 4 tháng 8, thời sự nước Mỹ lại có thêm một chuyện đáng chú ý khác:
Truyền hình Mỹ thi nhau chiếu cảnh máy bay của cựu Tổng thống Bill Clinton vừa từ Bắc Hàn trở về California.  Ông đã thành công trong việc “ngoại giao” để cứu hai cô phóng viên Laura Ling và Euna Lee – bị bắt giam từ ngày 17 tháng 3 với tội trạng “xâm phạm lãnh thổ Bắc Hàn.”  Họ bị tuyên án 12 năm tù khổ sai.
Cựu Phó Tổng Thống Al Gore (đứng giữa Laura Ling – áo nâu và Euna Le – áo xám) đang phát biểu trong buổi họp báo cấp tốc ngay khi phi cơ vửa đáp xuống phi trường Burbank, California.  Góc trái là cựu Tổng Thống Bill Clinton, người thành công trong vai trò sứ giả ngoại giao.
Laura Ling và Euna Lee làm việc cho hãng truyền thông Current TV – được sáng lập và điều hành bởi cựu phó Tổng thống Al Gore.  Hai cô đến biên giới Trung Quốc và Bắc Hàn để tìm hiểu tệ nạn phụ nữ và trẻ em Bắc Hàn bỏ trốn sang Trung Quốc tìm miếng ăn, lỡ bước sao đó bị Bắc Hàn bắt nhốt, tuyên án 12 năm khổ sai.  Sau gần 5 tháng bị nhốt giam cách ly, hai phóng viên đã được trả lại tự do, trở về Mỹ.  Nếu cựu Tổng thống Clinton không sang kịp thì bất cứ giờ nào trong 2 ngày sau đó, hai cô phóng viên sẽ bị đưa đi thi hành bản án 12 năm tù khổ sai.  Họ đã bị khủng bố tinh thần và hoang mang, thấp thỏm chờ đợi… Cuối cùng họ cũng được đưa đi… nhưng không phải đến nhà tù khổ sai mà là một nơi khiến họ ngạc nhiên ứa nước mắt khi nhìn thấy cựu Tổng thống Clinton đứng chờ sẵn trong phòng. Ác mộng của họ được kết thúc.
Vụ hai nhà báo được cứu từ Bắc Hàn về làm tôi nhớ câu chuyện ly kỳ hấp dẫn của cô Jessica Lynch. Năm 2003, tại chiến trường Iraq, một đơn vị xe tăng Mỹ bị tấn công khi lạc đường.  Jessica Lynch là nữ chiến binh duy nhất còn sống sót trong chiếc xe tăng tiếp tế lương thực.  Toán tiếp tế của cô đã lạc đường và bị tấn công.
Cả một lực lượng đặc biệt với chiến lược và chuẩn bị vô cùng công phu đã bí mật đến cứu thoát cô Jessica Lynch sau 9 ngày bị bắt.  Tôi còn nhớ khi xem đoạn phim chiếu chi tiết cảnh toán biệt kích đến cứu Jessica Lynch, tôi đã xúc động và khâm phục người Mỹ ra sao.  Họ quý trọng từng tính mạng.  (Hình dưới Jessica Lynch)

Cựu Tổng thống Clinton đi Bắc Hàn chỉ với tư cách cá nhân, máy bay chở ông đi cũng chỉ là một máy tư nhân, được tài trợ bởi nhà sản xuất phim Hollywood giàu có: Steve Bing.
Điều đáng chú ý khác, là hai phóng viên được cứu cũng không phải là người Mỹ da trắng; Laura Ling gốc Trung Hoa, Euna Lee thì gốc Đại Hàn. Họ cũng như những người Mỹ gốc Việt chúng ta nói riêng, và nhiều dân tộc thiểu số lưu vong khác nói chung.
Thế mới rõ, một khi đã sống ở Mỹ, trở thành công dân Mỹ thì dù trắng, đỏ, đen hay vàng… mọi người dân đều được quý trọng.
Đâu cần cứ phải là người Mỹ gốc da trắng như cô Jessica Lynch bị bắt làm tù binh bên Iraq thì mới được quan tâm giải cứu.
Lời của cựu phó Tổng thống Gore khi phái đoàn của cựu Tổng thống Clinton về đến Mỹ cùng hai phóng viên, rất đáng để ý, “It speaks well of our country that when two American citizens are in harm’s way, that so many people will just put things aside and just go to work to make sure that this has had a happy ending.” Đã có rất nhiều người sẵn sàng bỏ việc của họ sang một bên, góp công sức và thời gian vào việc cứu thoát hai phóng viên gặp nạn, để bảo đảm một hồi cuối có hậu.
Thấy sự quan tâm của nước Mỹ, người Mỹ dành cho những công dân của họ, không khỏi liên tưởng đến số phận bất hạnh của người dân trong nước.  Những người dân lương thiện không làm gì phạm pháp, chỉ vì yêu dân yêu nước mà nói sự thật thì đều bị đàn áp.  Hết người này đến lượt khác bị đối đãi tệ hại.
Nhiều sự việc cho thấy là trước khi phải thương lượng gì đó với Tây phương, nhà nước Việt Nam thường mở một cuộc đàn áp lớn, bắt giam cả lô người.  Để rồi khi vào thương lượng, bị yêu cầu phải thả tù chính trị và cải thiện nhân quyền trong nước… họ sẽ “tỏ thiện chí” bằng cách thả mấy người bị bắt.  Kết quả là nhờ vậy mà sẽ được “tưởng thưởng”.  Màn này thường được diễn đi diễn lại và đạt kết quả, giúp Việt Nam được Mỹ mở rào cản cho gia nhập WTO, đạt được nhiều thoả thuận thương mại với Mỹ.
Điều này thật chẳng khác nào hành hung đày đọa dã man chính con đẻ của mình để mè nheo hàng xóm.
Thời tôi còn bé xíu, gần nhà tôi có ông láng giềng nghiện rượu có tật hay đánh đập con cái dã man. Nghe lũ trẻ của ông ta kêu khóc, cha mẹ ở các nhà xung quanh sốt ruột quá phải chạy sang can. Có người còn nài nỉ ông đừng đánh con ông nữa, họ sẽ mua rượu ông uống.  Từ đó, cứ hễ thèm rượu thì ông hàng xóm lại mang con ra đánh đập.  Chuyện bi hài này hiện đang được phóng lớn lên kích thước lãnh đạo cả nước Việt Nam.  Đọa đày hành hạ người dân của chính đất nước mình để để có chuyện thương lượng trả giá với quốc tế.
Nước Mỹ không phải là mẹ ruột mà chỉ là “mẹ nuôi” của hàng trăm triệu đứa con lạc loài từ hàng trăm nòi giống khác nhau, trong đó có dân gốc Việt.  Vậy mà bà mẹ nuôi ấy đã cưu mang và thương yêu các con dù không phải là ruột rà của bà.
Mỗi khi xảy ra điều gì bất công với dân Việt trong nước thì người Việt hải ngoại thường hô hào và kêu gọi “mẹ nuôi Mỹ” giúp đỡ.  Nhưng dù mẹ nuôi Mỹ có tốt bụng, và những đứa con Việt Nam sống xa quê hương có “xót ruột” cho đồng bào trong nước mà hô hào, biểu tình đòi hỏi thì cũng vẫn không đủ.
Chính người dân Việt trong nước phải tự ý thức mà đấu tranh cho nhu cầu và quyền lợi chính đáng của họ.
***
Hôm Micheal Jackson chết, chỉ vài ngày rất nhanh sau đó, chưa thấy báo chí Mỹ đăng tải hình ảnh dân Mỹ khóc… thì đã có một bài viết “Mưa và nước mắt trong buổi tưởng niệm Micheal tại Việt Nam,” với khá nhiều hình ảnh các em Việt Nam khóc lóc, bưng hình, đốt nến, kéo đi thành đoàn dài… Y như một đám tang lớn được chính thức tổ chức cho Micheal Jackson tại công viên Thống Nhất Hà Nội.
Là ông hoàng nhạc Rock, Micheal Jackson đáng được nhớ đến cho những đóng góp xuất sắc của ông.  Nhưng hình ảnh các em bé Việt bị bắt đi tập họp ôm nhau khóc Micheal Jackson chỉ là trò dựng cảnh, đóng kịch, để chụp hình lòe thiên hạ, chứ chẳng thật chút nào.
Phải chăng báo chí người lớn tại Việt Nam cần màn khóc giả này để lấp liếm đủ thứ chuyện thật sự đáng khóc:
- Trung Quốc xây đập chận nước ở thượng nguồn sông Cửu Long. Vựa lúa miền Nam ở đồng bằng Cửu Long phía hạ nguồn đang bị đe dọa tiêu vong. Lúa má, mùa màng, lưới cá dân miền Nam rồi sẽ ra sao?
- Trung Quốc sang Việt Nam khai thác quặng Bô-Xít ở Tây Nguyên sẽ gây thiệt hại nặng nề đến môi sinh.  Hàng trăm công trình xây dựng căn bản tại Việt Nam, kể cả con đường huyết mạch nhất của đất nước, đang được giao cho nhà thầu Trung Quốc. Báo Việt Nam chính thức loan tin có 35,000 công nhân Trung Quốc đã chính thức vào Việt Nam. Thực tế không kiểm soát nổi có thể cả trăm ngàn. Họ đang thiết lập ngay trong nội địa Việt Nam nhiều căn cứ, lãnh địa.
- Lãnh thổ Việt Nam, cả đất đai lẫn biển cả đang bị mang dâng cho Trung Quốc. Gần đây nhất, ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắt giữ, thuyền cá dân Việt bị “tầu lạ” húc chìm, không thấy nhà nước nào lên tiếng.  Trong khi ấy dân biểu tình đòi bảo vệ đất nước thì bị dẹp bỏ, bắt bớ.
“First class society is built only by first class citizens.”  Một xã hội, một đất nước hảo hạng phải được xây dựng và bảo vệ bằng những công dân hảo hạng.  Điều đó hầu như là chân lý trong lịch sử nhân loại.
Nhưng một đất nước sẽ không thể nào sống còn, cường thịnh nếu mọi cố gắng từ nhân dân đều bị chính cái chính phủ của họ dập tắt.  Nếu không có sự tự nỗ lực từ phía chính phủ thì dù người dân mọn, dân-hoàn-chỉnh, hay dân-hảo-hạng có cố gắng bao nhiêu cũng bằng thừa.
Winston Churchill, một vị lãnh đạo tài ba của thế giới đã căn dặn hậu thế rằng, “The healthy citizens are the greatest asset of any country can have.”
Phải quý dân và vì dân mới bảo vệ được biên cương, dân tộc, và tài nguyên.  Không bất cứ một cá nhân nào, dù là tài thánh, có thể cứu được đất nước chúng ta nếu lãnh đạo đất nước chỉ dùng dân như một thứ “con tin”, như miếng mồi, để mua lấy quyền lực cho họ.
 
Hình từ các báo trong nước đăng về biến cố Michael Jackson tại Việt Nam. (Xem thêm ở đây).
Khi tôi viết bài này, có tin Thượng nghị sĩ Jim Webb, chủ tịch Uỷ Ban Đông Á-Thái Bình Dương của Thượng Viện Hoa Kỳ đang viếng thăm các nước trong vùng Đông Nam Á: Miến Điện, Thái Lan, Lào, Việt và Cambuchia để chuẩn bị một số dự án cho tương lai.  TNS Jim Webb đã hội kiến tổng thống độc tài Miến Điện Than Shwe.  Hai vấn đề được nêu ra là xin trả tự do cho cựu chiến binh Yettaw và Aung San Suu Kyi.
TNS Jim Webb đã được chấp thuận giải cứu Yettaw, và được đồng ý một cuộc gặp gở thăm hỏi vị nữ anh hùng đấu tranh cho dân chủ Miến Điện Aung San Suu Kyi.  Cựu chiến binh Yettaw sẽ được mang ra khỏi Miến Điện sáng chu nhật 16-08.
Thượng nghị sĩ Jim Webb vốn rất thân thiện và có nhiều kỷ niệm với Việt Nam đặc biệt vùng đất cũng như người dân xứ Quảng (cũng là xứ sở của số ngư dân đang bị Trung Quốc bắt giam). Nhưng sự cố gắng của TNS Jim Webb nói riêng và Hoa Kỳ nói chung cũng sẽ chỉ kết quả nếu có sự nỗ lực thật sự từ phía người dân và chính quyền Việt Nam.
Liệu đến bao giờ nước Việt mới có được một chính quyền biết kết hợp với sức mạnh dân tộc để tự cứu chính mình?
Anne Khánh Vân
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

The

Links:

Anne Khánh Vân Blog Spot 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét