CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG TRUYỆN VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN 1990

NGUYEN VAN KHA
Trong lịch sử xã hội loài người, sự phát triển ý thức cá nhân là dấu hiệu của sự phát triển của ý thức con người về vai trò chủ thể của mình trong mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội, với bản thân. Trong văn học, sự vận động và phát triển của một nền văn học được thể hiện ở trình độ chiếm lĩnh con người, sự khám phá và lý giải về đời sống cá nhân, về cá tính là một vấn đề có vị trí vô cùng quan trọng.
Nói đến con người cá nhân ta nghĩ đến nhu cầu cho sự tồn tại của một con người, từ những nhu cầu bản năng tự nhiên như việc ăn, ngủ, đi lại ... đến những nhu cầu tinh thần như ý chí, tình yêu, những khát khao mơ ước hướng tới những chuẩn mực đạo đức, cái đẹp, chân lý... Sự tồn tại của những nhu cầu, sự phát triển về tinh thần, về năng lực sáng tạo của cá nhân trong mọi niểu hiện thực tế của nó bao giờ cũng gắn với sự tồn tại những cá tính, những tư chất riêng, năng lực phẩm chất riêng, nhân cách riêng để khẳng định sự hiện hữu của chính cá nhân đó. C.Mác viết: “Đặc điểm sức mạnh của bất cứ con người nào cũng chính là cái bản chất riêng của họ, vì vậy cũng là thách thức riêng của việc khách quan hoá của họ, tức là cách thức riêng của cái thực thể sinh động của họ, thực thể khách quan và thực tế” (1). Con người bao giờ cũng gắn với môi trường giai cấp, xã hội cụ thể. Vì thế cá nhân phải là một thành viên của cộng đồng. Con người với tư cách cá nhân trong xã hội, thành viên của cộng đồng bao giò cũng cá xác tín, có trách nhiệm với chính xã hội, cộng đồng của từng cá nhân – ngay cả khi đó không phải là những biểu hiện trực tiếp trong tập thể, cùng tiến hành với cá nhân khác vẫn là những biểu hiện của sinh hoạt xã hội, và khẳng định cho nếp sống sinh hoạt nói trên” (2).
Nói đến cá nhân là nói đến những nhu cầu cho sự tồn tại một con người gắn với những vấn đề căn cốt của con người: tự do, hạnh phúc, nhân phẩm, lương tri v.v... nói đến những biểu hiện làm nên bộ mặt tinh thần riêng, tạo ra sự hài hoà trong mối quan hệ giữa cá nhân với tự nhiên, xã hội, với bản thân nó.
Trong văn học Việt Nam từ sau 1945, việc thể hiện con người từ con người quần chúng, con người tập thể, đến con người cá nhân là bằng chứng sự vận động của văn học Việt Nam thời kỳ mới. Tuy nhiên con người cá nhân được nói đến trong văn học cách mạng trước 1975 nằm trong quan niệm chung về con người lúc đó còn sơ lược, một chiều: “Cuộc sống của nhân dân ta vô cùng anh dũng và phong phú, nhưng việc phản ánh cuộc sống đó vào văn học, nghệ thuật của ta còn sơ lược” (3). Con người cá nhân trong văn học kháng chiến (1945-1954): “Đã có ý nghĩa riêng nhưng được đánh giá theo quan niệm lợi ích tập thể” (4). Sang thập niên 1954-1964: “phương diện đời tư, đặc điểm cá nhân đã được chú ý nhiều hơn như những biểu hiện đa dạng của tập thể của quần chúng” (5). Quan niệm sơ lược về con người trong đó có cách hiểu đơn giản, một chiều về con người cá nhân trở ngại cho việc phản ánh cuộc sống anh dũng, phong phú của nhân dân ta theo bề sâu.
Sau năm 1975, trong truyện Việt Nam, các nhà văn đã chú ý đến con người cá nhân, đời sống riêng tư, thế giới riêng, năng lực riêng của mỗi người. Đó là kết quả của tiến trình giải phóng cá nhân do thành quả của hai cuộc kháng chiến mở đường. Vì thế ta không ngạc nhiên khi các nhà văn với các tác phẩm ngược thời gian viết về đời sống riêng tư của từng cá nhân như Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam, Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, Thời xa vắng của Lê Lựu, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Thời gian của người, Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé tý của Nguyễn Khải v.v... Trong các tác phẩm đó, các tác giả đã tập trung thể hiện thế giới riêng tư của cá nhân. Mỗi người tự nhận thức về bản thân mình.
1.Tiếng nói tự nhận thức về bản thân
Trong Sống với thời gian hai chiều, Vũ Tú Nam đã chú ý đến đời sống tinh thần của một con người đã kinh qua hai cuộc kháng chiến – ông An. Tác giả đặt nhân vật vào thời điểm: ông An xấp xỉ tuổi 60. Với đời người đó là thời điểm cần ngoái lại nhìn quá khứ: Ông An sau hơn ba mươi lăm năm xa người thân, xa quê hương vì những điều vừa riêng vừa chung: quan hệ tình cảm với cô Ngàn trước đây không thành, vì hoàn cảnh kháng chiến ông phải đi xa biền biệt ... Chỉ mấy hôm trở lại quê hương, ông đã sống với bao kỷ niệm của quá khứ từ những điều bắt gặp trong hiện tại. Tác giả để cho nhân vật hồi tưởng từ dòng họ (ông bà cố) đến những người thân, bạn bè và chuyện riêng tư của chính mình. Kinh nghiệm sống của bản thân ông được đúc kết qua từng mảng hồi ức: “Chao ôi! mấp mé sáu mươi tuổi đầu, ta chưa đủ sức làm đúng nhiệm vụ một người chồng, một người cha! Những điều xưa nay ta tưởng rất dễ dàng, đơn giản (như nuôi con, dạy con..) té ra là không như vậy. Nhiều sự việc đã khiến ta sáng mắt, ta hiểu được thêm nhưng tiếc thay khi đã tích luỹ được ít nhiều từng trải thì tuổi tác và sức khoẻ hầu như không cho phép ta làm hại hoặc làm được gì thêm nữa. Còn gì chán ngán bằng sống theo thói quen, hôm nay chẳng khác hôm qua, và ngày mai lại giống in như thế” (6). Sống với thời gian hai chiều là những trang viết bằng hồi ức về bản thân mình, về gia đình, dòng họ. Hoá ra thời nào cũng thế, con người ngẫm cho cùng đều sống và nghĩ suy theo cung cách của thời đại mình. Thời trẻ, ông An đã sống trong bầu không khí đầy sôi động của đất nước. Ông đã từng: “Đi vào cách mạng, lòng luôn luôn phơi phới, tưởng như cái gì cũng đơn giản, dễ dàng” (7). Đó là thời kỳ cái tôi cá nhân phụng sự cái ta dân tộc, phụng sự cho cuộc kháng chiến vì lẽ tồn vong của dân tộc. Chiến tranh đi qua, cuộc sống trở về với hoàn cảnh bình thường. Thời thế đã thay đổi, con người sống, làm việc theo cung cách mới. Bao nhiêu quan hệ mới đặt con người vào thế ứng xử, lựa chọn. Trước dòng đời, dòng thời gian ông An đã suy ngẫm: “Thế là lần lượt: cô, bác, rồi thầy, mẹ, cậu, mợ mình đã theo nhau ra đi hết cả. Cách cụ như những lớp đá khô trút xuống trở về với đất. Và đến lượy cánh mình phơi ra giữa trời như những lớp lá già, che nắng, che sương, chuẩn bị cho những chồi non. Chồi non là con mình, cháu mình, chắt mình. Chúng nó đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng. Còn mình thì đứng giữa ư? Hay theo hướng nào?” (8). Sống với thời gian hai chiều là bản “kiểm điểm” chân thành và xúc động về đời tư của một con người trước dòng chảy của thời cuộc.
NGUYEN VAN KHA
Trong lịch sử xã hội loài người, sự phát triển ý thức cá nhân là dấu hiệu của sự phát triển của ý thức con người về vai trò chủ thể của mình trong mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội, với bản thân. Trong văn học, sự vận động và phát triển của một nền văn học được thể hiện ở trình độ chiếm lĩnh con người, sự khám phá và lý giải về đời sống cá nhân, về cá tính là một vấn đề có vị trí vô cùng quan trọng.
Nói đến con người cá nhân ta nghĩ đến nhu cầu cho sự tồn tại của một con người, từ những nhu cầu bản năng tự nhiên như việc ăn, ngủ, đi lại ... đến những nhu cầu tinh thần như ý chí, tình yêu, những khát khao mơ ước hướng tới những chuẩn mực đạo đức, cái đẹp, chân lý... Sự tồn tại của những nhu cầu, sự phát triển về tinh thần, về năng lực sáng tạo của cá nhân trong mọi niểu hiện thực tế của nó bao giờ cũng gắn với sự tồn tại những cá tính, những tư chất riêng, năng lực phẩm chất riêng, nhân cách riêng để khẳng định sự hiện hữu của chính cá nhân đó. C.Mác viết: “Đặc điểm sức mạnh của bất cứ con người nào cũng chính là cái bản chất riêng của họ, vì vậy cũng là thách thức riêng của việc khách quan hoá của họ, tức là cách thức riêng của cái thực thể sinh động của họ, thực thể khách quan và thực tế” (1). Con người bao giờ cũng gắn với môi trường giai cấp, xã hội cụ thể. Vì thế cá nhân phải là một thành viên của cộng đồng. Con người với tư cách cá nhân trong xã hội, thành viên của cộng đồng bao giò cũng cá xác tín, có trách nhiệm với chính xã hội, cộng đồng của từng cá nhân – ngay cả khi đó không phải là những biểu hiện trực tiếp trong tập thể, cùng tiến hành với cá nhân khác vẫn là những biểu hiện của sinh hoạt xã hội, và khẳng định cho nếp sống sinh hoạt nói trên” (2).
Nói đến cá nhân là nói đến những nhu cầu cho sự tồn tại một con người gắn với những vấn đề căn cốt của con người: tự do, hạnh phúc, nhân phẩm, lương tri v.v... nói đến những biểu hiện làm nên bộ mặt tinh thần riêng, tạo ra sự hài hoà trong mối quan hệ giữa cá nhân với tự nhiên, xã hội, với bản thân nó.
Trong văn học Việt Nam từ sau 1945, việc thể hiện con người từ con người quần chúng, con người tập thể, đến con người cá nhân là bằng chứng sự vận động của văn học Việt Nam thời kỳ mới. Tuy nhiên con người cá nhân được nói đến trong văn học cách mạng trước 1975 nằm trong quan niệm chung về con người lúc đó còn sơ lược, một chiều: “Cuộc sống của nhân dân ta vô cùng anh dũng và phong phú, nhưng việc phản ánh cuộc sống đó vào văn học, nghệ thuật của ta còn sơ lược” (3). Con người cá nhân trong văn học kháng chiến (1945-1954): “Đã có ý nghĩa riêng nhưng được đánh giá theo quan niệm lợi ích tập thể” (4). Sang thập niên 1954-1964: “phương diện đời tư, đặc điểm cá nhân đã được chú ý nhiều hơn như những biểu hiện đa dạng của tập thể của quần chúng” (5). Quan niệm sơ lược về con người trong đó có cách hiểu đơn giản, một chiều về con người cá nhân trở ngại cho việc phản ánh cuộc sống anh dũng, phong phú của nhân dân ta theo bề sâu.
Sau năm 1975, trong truyện Việt Nam, các nhà văn đã chú ý đến con người cá nhân, đời sống riêng tư, thế giới riêng, năng lực riêng của mỗi người. Đó là kết quả của tiến trình giải phóng cá nhân do thành quả của hai cuộc kháng chiến mở đường. Vì thế ta không ngạc nhiên khi các nhà văn với các tác phẩm ngược thời gian viết về đời sống riêng tư của từng cá nhân như Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam, Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, Thời xa vắng của Lê Lựu, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Thời gian của người, Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé tý của Nguyễn Khải v.v... Trong các tác phẩm đó, các tác giả đã tập trung thể hiện thế giới riêng tư của cá nhân. Mỗi người tự nhận thức về bản thân mình.
1.Tiếng nói tự nhận thức về bản thân
Trong Sống với thời gian hai chiều, Vũ Tú Nam đã chú ý đến đời sống tinh thần của một con người đã kinh qua hai cuộc kháng chiến – ông An. Tác giả đặt nhân vật vào thời điểm: ông An xấp xỉ tuổi 60. Với đời người đó là thời điểm cần ngoái lại nhìn quá khứ: Ông An sau hơn ba mươi lăm năm xa người thân, xa quê hương vì những điều vừa riêng vừa chung: quan hệ tình cảm với cô Ngàn trước đây không thành, vì hoàn cảnh kháng chiến ông phải đi xa biền biệt ... Chỉ mấy hôm trở lại quê hương, ông đã sống với bao kỷ niệm của quá khứ từ những điều bắt gặp trong hiện tại. Tác giả để cho nhân vật hồi tưởng từ dòng họ (ông bà cố) đến những người thân, bạn bè và chuyện riêng tư của chính mình. Kinh nghiệm sống của bản thân ông được đúc kết qua từng mảng hồi ức: “Chao ôi! mấp mé sáu mươi tuổi đầu, ta chưa đủ sức làm đúng nhiệm vụ một người chồng, một người cha! Những điều xưa nay ta tưởng rất dễ dàng, đơn giản (như nuôi con, dạy con..) té ra là không như vậy. Nhiều sự việc đã khiến ta sáng mắt, ta hiểu được thêm nhưng tiếc thay khi đã tích luỹ được ít nhiều từng trải thì tuổi tác và sức khoẻ hầu như không cho phép ta làm hại hoặc làm được gì thêm nữa. Còn gì chán ngán bằng sống theo thói quen, hôm nay chẳng khác hôm qua, và ngày mai lại giống in như thế” (6). Sống với thời gian hai chiều là những trang viết bằng hồi ức về bản thân mình, về gia đình, dòng họ. Hoá ra thời nào cũng thế, con người ngẫm cho cùng đều sống và nghĩ suy theo cung cách của thời đại mình. Thời trẻ, ông An đã sống trong bầu không khí đầy sôi động của đất nước. Ông đã từng: “Đi vào cách mạng, lòng luôn luôn phơi phới, tưởng như cái gì cũng đơn giản, dễ dàng” (7). Đó là thời kỳ cái tôi cá nhân phụng sự cái ta dân tộc, phụng sự cho cuộc kháng chiến vì lẽ tồn vong của dân tộc. Chiến tranh đi qua, cuộc sống trở về với hoàn cảnh bình thường. Thời thế đã thay đổi, con người sống, làm việc theo cung cách mới. Bao nhiêu quan hệ mới đặt con người vào thế ứng xử, lựa chọn. Trước dòng đời, dòng thời gian ông An đã suy ngẫm: “Thế là lần lượt: cô, bác, rồi thầy, mẹ, cậu, mợ mình đã theo nhau ra đi hết cả. Cách cụ như những lớp đá khô trút xuống trở về với đất. Và đến lượy cánh mình phơi ra giữa trời như những lớp lá già, che nắng, che sương, chuẩn bị cho những chồi non. Chồi non là con mình, cháu mình, chắt mình. Chúng nó đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng. Còn mình thì đứng giữa ư? Hay theo hướng nào?” (8). Sống với thời gian hai chiều là bản “kiểm điểm” chân thành và xúc động về đời tư của một con người trước dòng chảy của thời cuộc.
Trong Tuổi thơ im lặng, Duy Khán viết về với đời sống riêng, với những ấn tượng, những nỗi niềm riêng của cậu bé Khán. Đó là những kỷ niệm gắn với cảnh vật, quê hương, xứ sở, với cuộc sống gia đình có những chuyện vui buồn... Gia đình Khán nghèo về vật chất nhưng Khán hiếu học và giàu tình thương, lòng nhân ái. Cậu bé Khán sớm bộc lộ những tư chất riêng: giàu lòng trắc ẩn, đa mang. Khán yêu các con vật (con chó, con mèo, những vật nuôi trong gia đình), Trong đêm nghe những tiếng kêu của cò, của vạc Khán cũng xót xa.. Một con người sớm ý thức về bản thân (khao khát sự tiến bộ trong học tập, biết trọng nhân cách), biết ứng xử với mọi người trong gia đình (hiếu thảo với bố mẹ, anh em đùm bọc chia bùi sẻ ngọt cho nhau), quan hệ với mọi người trong làng, trong xóm giàu tình nghĩa. Khán sẵn sàng lên đường làm nghĩa vụ công dân khi đến tuổi trưởng thành. Điểm sáng trong nhân cách của Khán là tình thương yêu đồng loại, biết trọng nhân nghĩa, đạo lý truyền thống của dân tộc. Thể hiện ở tình thương những người nghèo khó hay gặp cảnh ngộ éo l1: những người thân phận bé nhỏ (chú Ất), người ăn mày (ông Lập, ông Đăng), người đi ở (ông Vinh, bà Sứt) ... Tuổi thơ im lặng là cái nhìn đầy nhân bản về con người trong hồi ức của Duy Khán: có khờ dại, có vui, có buồn, có hạnh phúc và đau khổ, có biểu hiện của tư chất riêng, có bổ phận của một thành viên trong gia đình và xã hội. “Từ các trang viết, người đọc nghe ra một giọng nói xót xa mà lại đầm ấm. Ngòi bút ấy đang viết cho chính mình” (Vương Trí Nhàn, Nhớ lại một cuộc phiêu lưu có hậu, Thể thao và văn hoá, Số 59, ra ngày 25/7/1998, tr.25)
Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), Lê Lựu (Thời xa vắng), Nguyễn Khải (Thời gian của Người, Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé) v.v... là một cuộc “hành trình về nguồn”. Mỗi cá nhân, qua trường kỳ kháng chiến gian khổ, từ những thành quả đặt được trong đời người, đang ngẫm nghĩ suy tư về chính bản thân mình. Trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, nhân vật Quỳ nghĩ về những năm tháng ở Trường Sơn với những điều chiêm nghiệm của bản thân về người lính trong ý nghĩ của chị lúc đó: “Tôi thật ngu dại với những người đàn ông quý nhất trong số những người đáng quý ấy, tôi đã không coi họ là những người đang sống giữa cuộc đời, mà lại đòi hỏi ở họ một thánh nhân. Tôi đã tìm cái tuyệt đối không bao giờ có” (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, tr.169). Hiểu những giá trị có được của chính bản thân cũng có nghĩa là mỗi người đang thực hiện hành động tự giải phóng. Từ những chiêm nghiệm, Quỳ hiểu thêm về bản thân mình, về người thân, về nhân dân: “Hoá ra cuộc sống từ bao đời là như thế, con người là một sự kết tinh của những tinh hoa. Hoá ra thời nào cũng có những con người như anh ấy, tập trung trí tuệ và tài năng trác tuyệt của nhân dân và mang trong lòng tất cả những khát vọng cháy bỏng của nhân dân” (tr.188).
Sau năm 1975, chiến tranh đã kết thúc. Đất nước, quê hương, xã hội, con người biết bao thay đổi. Một vấn đề mới được đặt ra: sự thay đổi với mỗi cá nhân được nhận thức như thế nào? Mỗi cá nhân phải tự vận động để hoà nhập vào cuộc sống mới, phải sống sao cho phải, cho đúng với hoàn cảnh xung quanh đang đổi thay từng giờ, từng ngày, để bản thân mỗi người không bị đánh mất mình trong dòng chảy của đời sống? Cùng với thời gian, mỗi người vẫn giữ được mối quan hệ với quá khứ, hiện tại và tương lai, với người thân bạn bè đồng nghiệp, với gia đình dòng họ, với thế hệ kế tiếp... Trong hoàn cảnh như vậy, sự tự ý thức về bản thân giúp con người hiểu mình hơn và từ đó làm chủ được bản thân mình. Đó là biểu hiện của kết quả của sự vận động của ý thức xã hội, cũng là dấu hiệu của sự trưởng thành của ý thức con người trong quá trình từ nhận thức về chính bản thân, về vai trò chủ thể của mình trong xã hội và trong cuộc sống.
2.Khám phá đời tư của con người cá nhân.
Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, những đoạn viết về đời tư con người là những đoạn hay nhất, hấp dẫn nhất. “Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (9).
Những lúc ngòi bút của Nguyễn Minh Châu chạm đến những nỗi niềm tâm sự sâu kín gắn với những vấn đề căn cốt của đời sống con người (tự do, hạnh phúc, nhân phẩm, lương tri..) là những lúc ngòi bút của ông rất giàu cảm xúc. Trong Khách ở quê ra, Khúng đã cho rằng, câu chuyện từ đầu cuộc rượu nói với Định về chuyện xô xát, cãi cọ, chuyện sinh đẻ có kế hoạch... đều là “chuyện tào lao”cả. Nhân vật quay về sống với những điều chiêm nghiệm của bản thân. Cái được, cái mất, hạnh phúc và đau khổ trong đời, Khúng đã nghiệm thấy bên ly rượu nhà Định: “Phàm con người ta ở đời, có cái gì hơn người, sướng vì nó và chuốc lấy chua cay cũng vì nó?!” (Tuyển tập Nguyễn Minh Châu(10), tr.526). Trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, người nữ y sĩ Quỳ trở thành bệnh nhân thần kinh vì những nỗi niềm riêng trong đời không thể không sống với nó được và phải có nhu cầu để giải bày: “Không, không nói với đồng chí thì tôi cũng không phải nói với một người khác. Bởi vì tôi không thể tự trò chuyện với mình suốt đời đu75c” (tr.163). Trong Cỏ lau, cái làm nên sự hấp dẫn của câu chuyện không phải là việc khắc phục mọi khó khăn rắc rối trong khi đi tìm mộ các chiến sỹ đã hy sinh ở chiến trường Quảng Trị; cũng không là chuyện đôi vợ chồng vì chiến tranh phải tan vỡ hanh phúc (vợ ngỡ chồng đã chết, chồng trở về từ chiến trường sau chiến tranh thì vợ đã đi lấy chồng khác), mà là chuyện về thân phận, đời tư của những người đã trải qua hai cuộc chiến tranh, là những hy sinh mất mát của những người trẻ tuổi, của cuộc đời người lính cho độc lập tổ quốc, hạnh phúc, tự do của nhân dân.
Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), Lê Lựu (Thời xa vắng), Nguyễn Khải (Thời gian của Người, Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé) v.v... là một cuộc “hành trình về nguồn”. Mỗi cá nhân, qua trường kỳ kháng chiến gian khổ, từ những thành quả đặt được trong đời người, đang ngẫm nghĩ suy tư về chính bản thân mình. Trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, nhân vật Quỳ nghĩ về những năm tháng ở Trường Sơn với những điều chiêm nghiệm của bản thân về người lính trong ý nghĩ của chị lúc đó: “Tôi thật ngu dại với những người đàn ông quý nhất trong số những người đáng quý ấy, tôi đã không coi họ là những người đang sống giữa cuộc đời, mà lại đòi hỏi ở họ một thánh nhân. Tôi đã tìm cái tuyệt đối không bao giờ có” (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, tr.169). Hiểu những giá trị có được của chính bản thân cũng có nghĩa là mỗi người đang thực hiện hành động tự giải phóng. Từ những chiêm nghiệm, Quỳ hiểu thêm về bản thân mình, về người thân, về nhân dân: “Hoá ra cuộc sống từ bao đời là như thế, con người là một sự kết tinh của những tinh hoa. Hoá ra thời nào cũng có những con người như anh ấy, tập trung trí tuệ và tài năng trác tuyệt của nhân dân và mang trong lòng tất cả những khát vọng cháy bỏng của nhân dân” (tr.188).
Sau năm 1975, chiến tranh đã kết thúc. Đất nước, quê hương, xã hội, con người biết bao thay đổi. Một vấn đề mới được đặt ra: sự thay đổi với mỗi cá nhân được nhận thức như thế nào? Mỗi cá nhân phải tự vận động để hoà nhập vào cuộc sống mới, phải sống sao cho phải, cho đúng với hoàn cảnh xung quanh đang đổi thay từng giờ, từng ngày, để bản thân mỗi người không bị đánh mất mình trong dòng chảy của đời sống? Cùng với thời gian, mỗi người vẫn giữ được mối quan hệ với quá khứ, hiện tại và tương lai, với người thân bạn bè đồng nghiệp, với gia đình dòng họ, với thế hệ kế tiếp... Trong hoàn cảnh như vậy, sự tự ý thức về bản thân giúp con người hiểu mình hơn và từ đó làm chủ được bản thân mình. Đó là biểu hiện của kết quả của sự vận động của ý thức xã hội, cũng là dấu hiệu của sự trưởng thành của ý thức con người trong quá trình từ nhận thức về chính bản thân, về vai trò chủ thể của mình trong xã hội và trong cuộc sống.
2.Khám phá đời tư của con người cá nhân.
Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, những đoạn viết về đời tư con người là những đoạn hay nhất, hấp dẫn nhất. “Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (9).
Những lúc ngòi bút của Nguyễn Minh Châu chạm đến những nỗi niềm tâm sự sâu kín gắn với những vấn đề căn cốt của đời sống con người (tự do, hạnh phúc, nhân phẩm, lương tri..) là những lúc ngòi bút của ông rất giàu cảm xúc. Trong Khách ở quê ra, Khúng đã cho rằng, câu chuyện từ đầu cuộc rượu nói với Định về chuyện xô xát, cãi cọ, chuyện sinh đẻ có kế hoạch... đều là “chuyện tào lao”cả. Nhân vật quay về sống với những điều chiêm nghiệm của bản thân. Cái được, cái mất, hạnh phúc và đau khổ trong đời, Khúng đã nghiệm thấy bên ly rượu nhà Định: “Phàm con người ta ở đời, có cái gì hơn người, sướng vì nó và chuốc lấy chua cay cũng vì nó?!” (Tuyển tập Nguyễn Minh Châu(10), tr.526). Trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, người nữ y sĩ Quỳ trở thành bệnh nhân thần kinh vì những nỗi niềm riêng trong đời không thể không sống với nó được và phải có nhu cầu để giải bày: “Không, không nói với đồng chí thì tôi cũng không phải nói với một người khác. Bởi vì tôi không thể tự trò chuyện với mình suốt đời đu75c” (tr.163). Trong Cỏ lau, cái làm nên sự hấp dẫn của câu chuyện không phải là việc khắc phục mọi khó khăn rắc rối trong khi đi tìm mộ các chiến sỹ đã hy sinh ở chiến trường Quảng Trị; cũng không là chuyện đôi vợ chồng vì chiến tranh phải tan vỡ hanh phúc (vợ ngỡ chồng đã chết, chồng trở về từ chiến trường sau chiến tranh thì vợ đã đi lấy chồng khác), mà là chuyện về thân phận, đời tư của những người đã trải qua hai cuộc chiến tranh, là những hy sinh mất mát của những người trẻ tuổi, của cuộc đời người lính cho độc lập tổ quốc, hạnh phúc, tự do của nhân dân.
Những trang viết đầy xúc động như thế ta có thể bắt gặp trong Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Sống mãi với cây xanh v.v...
Việc đào sâu suy nghĩ khám phá, nhận thức về đời tư con người đã làm cho nhân vật trong truyện của Nguyễn Minh Châu trở nên tự do và độc lập một cách tương đối (như Bakhtin quan niệm). Nhân vật không trở thành “cái loa” phát tiếng nói của tác giả mà là một ý thức về bản thân đã được miêu tả thật sự. Nó hành động, trải nghiêm, suy nghĩ với chính thân phận mình. Điều này giải thích rằng, những con người trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu không chấp nhận một lối sống khác như bác Thông trong Sống mãi với cây xanh, không muốn đẵn cây để quy hoạch thành phố; Khúng trong Khách ở quê ra xa lạ với cuộc sống đô thị; Lực trong Cỏ lau ở lại vùng đất khai hoang, nơi có người lính trẻ và bao đồng đội khác của anh nằm lại sau chiến tranh... thì không có nghĩa là họ đã không chấp nhận sự tiến bộ xã hội. Vấn đề đặt ra là ở chỗ, làm sao sự tiến bộ xã hội phát huy được những mặt tốt, khắc phục mặt hạn chế, bảo thủ ở những con người như bác Thông, lão Khúng v.v... để sự tiến bộ xã hội không bỏ rơi những con người như họ - vốn đã cống hiến hết mình cho cách mạng, cho độc lập thống nhất của tổ quốc.
Sự sáng suốt và mẫn tiệp của Nguyễn Minh Châu chính là mình thấy phần con người đích thực trong con người qua những trang viết đầy cảm thông với đời tư của mỗi người như đã trình bày ở trên.
Với tầm nhìn mới phóng chiếu vào quá khứ và hiện tại, các tác giả trẻ sau năm 1975 đi sâu khám phá về đời tư của cá nhân. Trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, có truyện viết về đời sống của nhà chính trị (Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ...), chuyện người làm văn chương (Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương...), chuyện về các nhân vật lịch sử (Nguyễn Thị Lộ) ... Trong các tác phẩm viết về những con người nói trên, nhà văn không làm cái việc kể về thàng tích, công trạng của những con người một thời nổi tiếng trong lịch sử. Nhà văn cũng không bị chìm vào các sự kiện, không khí lịch sử. Trọng tâm chú ý của nhà văn là từng con người, từng số phận. Nhà văn soi tỏ sinh hoạt của từng cá nhân với những vui buồn, những cảnh ngộ, những nỗi niềm riêng trong cuộc đời. Nguyễn Ánh thuở hàn vi: “Ta chỉ vỏn vẹn có ba thước đất chôn thây thôi” (11). Cũng ghen ghét căm tức và hả hê khi kẻ thù của mình bị loại bỏ : “Nguyễn Huệ chết, Ánh mừng - sai mở tiệc mừng” (12). Nhà vua cũng có “cái tôi” riêng của mình: “Vua Gia Long không đại diện cho ai, ông chỉ chịu trách nhiệm với mình” (14) Vua Gia Long có sự tinh khôn. Khi đi săn, ông biết bọn hầu đã lừa ông bằng việc thả thú rừng vào những nơi ông đến (Vàng lửa). Nhà vua có sự xảo quyệt: giết Đặng Phú Lân, kẻ đã theo hầu hạ mình trong buổi đầu dựng nghiệp, sau khi sự nghiệp thành công (Kiếm sắc). Vua cũng có cá tính, sở thích riêng: thích nghe hát, thích đi săn, thích ăn “món gân hổ”. Nhà vua là một khối cô đơn khổng lồ” (15). Đặc biệt, Nguyễn Huy Thiệp chú ý đến những mâu đời tư của những nhân vật lịch sử như chuyện tình của Nguyễn Trãi với Nguyễn Thị Lộ, đời tư của Quang Trung Nguyễn Huệ. Trong truyện Giọt máu, đời tư của những người thuộc các thế hệ kế tiếp nhau trong một dòng họ (dòng họ ông Pham Ngọc Liên), được miêu tả cụ thể từ cá tính, sở thích, sự khôn ngoan, đến hoàn cảnh của từng người... không ai giống ai:
Cũng như Nguyễn Huy Thiệp, các nhà văn khác đã phát hiện ở những con người bình thường có đời sống riêng, thân phận riêng đây thăng trầm (Người đàn bà bị săn đuổi của Trần Văn Tuấn). Những mẫu đời tư in đậm nét những cá tính: “... Phương là hoạ sĩ oán thù bạo lực, còn Kiên thì “say mê cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên” (16) (Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh). người nữ diễn viên có khả năng dạy thú (Mùi cọp – Quý Thể). Chặng đời đầy trắc trở trong quá khứ và những ngẫu nhiên oái oăm trong hiện tại của cuộc đời một ông bác làm thành một bi kịch nhỏ (Bi kịch nhỏ - Lê Minh Khuê). Các nhà văn đã thể hiện rất sinh động trên trang viết của mình về đời tư của các nhân vật bằng những cách khác nhau như :hồi ức, nhật ký, giấc mơ, bằng sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại ... Chẳng hạn hồi ức, giấc mơ của ông An trong Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam, nhật ký của Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu, sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh...
Từ những điểm đã trình bày ở trên, ta thấy rằng trong truyện Việt Nam sau 1975, nhà văn chú ý khám phá, nhận thức về đời sống riêng của con người. Con người sống với hồi ức, nghiền ngẫm về quá khứ, chiêm nghiệm từ vốn sống, kinh nghiệm của bản thân. Chính vì vậy, truyện Việt Nam sau 1975 đã phần nào thể hiện cái ý thức về sự hiện hữu của từng cá nhân trong mối quan hệ với xã hội với tự nhiên với gia đình và với chính bản thân. Mỗi người là một thế giới riêng không lặp lại.
Việc đào sâu suy nghĩ khám phá, nhận thức về đời tư con người đã làm cho nhân vật trong truyện của Nguyễn Minh Châu trở nên tự do và độc lập một cách tương đối (như Bakhtin quan niệm). Nhân vật không trở thành “cái loa” phát tiếng nói của tác giả mà là một ý thức về bản thân đã được miêu tả thật sự. Nó hành động, trải nghiêm, suy nghĩ với chính thân phận mình. Điều này giải thích rằng, những con người trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu không chấp nhận một lối sống khác như bác Thông trong Sống mãi với cây xanh, không muốn đẵn cây để quy hoạch thành phố; Khúng trong Khách ở quê ra xa lạ với cuộc sống đô thị; Lực trong Cỏ lau ở lại vùng đất khai hoang, nơi có người lính trẻ và bao đồng đội khác của anh nằm lại sau chiến tranh... thì không có nghĩa là họ đã không chấp nhận sự tiến bộ xã hội. Vấn đề đặt ra là ở chỗ, làm sao sự tiến bộ xã hội phát huy được những mặt tốt, khắc phục mặt hạn chế, bảo thủ ở những con người như bác Thông, lão Khúng v.v... để sự tiến bộ xã hội không bỏ rơi những con người như họ - vốn đã cống hiến hết mình cho cách mạng, cho độc lập thống nhất của tổ quốc.
Sự sáng suốt và mẫn tiệp của Nguyễn Minh Châu chính là mình thấy phần con người đích thực trong con người qua những trang viết đầy cảm thông với đời tư của mỗi người như đã trình bày ở trên.
Với tầm nhìn mới phóng chiếu vào quá khứ và hiện tại, các tác giả trẻ sau năm 1975 đi sâu khám phá về đời tư của cá nhân. Trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, có truyện viết về đời sống của nhà chính trị (Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ...), chuyện người làm văn chương (Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương...), chuyện về các nhân vật lịch sử (Nguyễn Thị Lộ) ... Trong các tác phẩm viết về những con người nói trên, nhà văn không làm cái việc kể về thàng tích, công trạng của những con người một thời nổi tiếng trong lịch sử. Nhà văn cũng không bị chìm vào các sự kiện, không khí lịch sử. Trọng tâm chú ý của nhà văn là từng con người, từng số phận. Nhà văn soi tỏ sinh hoạt của từng cá nhân với những vui buồn, những cảnh ngộ, những nỗi niềm riêng trong cuộc đời. Nguyễn Ánh thuở hàn vi: “Ta chỉ vỏn vẹn có ba thước đất chôn thây thôi” (11). Cũng ghen ghét căm tức và hả hê khi kẻ thù của mình bị loại bỏ : “Nguyễn Huệ chết, Ánh mừng - sai mở tiệc mừng” (12). Nhà vua cũng có “cái tôi” riêng của mình: “Vua Gia Long không đại diện cho ai, ông chỉ chịu trách nhiệm với mình” (14) Vua Gia Long có sự tinh khôn. Khi đi săn, ông biết bọn hầu đã lừa ông bằng việc thả thú rừng vào những nơi ông đến (Vàng lửa). Nhà vua có sự xảo quyệt: giết Đặng Phú Lân, kẻ đã theo hầu hạ mình trong buổi đầu dựng nghiệp, sau khi sự nghiệp thành công (Kiếm sắc). Vua cũng có cá tính, sở thích riêng: thích nghe hát, thích đi săn, thích ăn “món gân hổ”. Nhà vua là một khối cô đơn khổng lồ” (15). Đặc biệt, Nguyễn Huy Thiệp chú ý đến những mâu đời tư của những nhân vật lịch sử như chuyện tình của Nguyễn Trãi với Nguyễn Thị Lộ, đời tư của Quang Trung Nguyễn Huệ. Trong truyện Giọt máu, đời tư của những người thuộc các thế hệ kế tiếp nhau trong một dòng họ (dòng họ ông Pham Ngọc Liên), được miêu tả cụ thể từ cá tính, sở thích, sự khôn ngoan, đến hoàn cảnh của từng người... không ai giống ai:
Cũng như Nguyễn Huy Thiệp, các nhà văn khác đã phát hiện ở những con người bình thường có đời sống riêng, thân phận riêng đây thăng trầm (Người đàn bà bị săn đuổi của Trần Văn Tuấn). Những mẫu đời tư in đậm nét những cá tính: “... Phương là hoạ sĩ oán thù bạo lực, còn Kiên thì “say mê cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên” (16) (Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh). người nữ diễn viên có khả năng dạy thú (Mùi cọp – Quý Thể). Chặng đời đầy trắc trở trong quá khứ và những ngẫu nhiên oái oăm trong hiện tại của cuộc đời một ông bác làm thành một bi kịch nhỏ (Bi kịch nhỏ - Lê Minh Khuê). Các nhà văn đã thể hiện rất sinh động trên trang viết của mình về đời tư của các nhân vật bằng những cách khác nhau như :hồi ức, nhật ký, giấc mơ, bằng sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại ... Chẳng hạn hồi ức, giấc mơ của ông An trong Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam, nhật ký của Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu, sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh...
Từ những điểm đã trình bày ở trên, ta thấy rằng trong truyện Việt Nam sau 1975, nhà văn chú ý khám phá, nhận thức về đời sống riêng của con người. Con người sống với hồi ức, nghiền ngẫm về quá khứ, chiêm nghiệm từ vốn sống, kinh nghiệm của bản thân. Chính vì vậy, truyện Việt Nam sau 1975 đã phần nào thể hiện cái ý thức về sự hiện hữu của từng cá nhân trong mối quan hệ với xã hội với tự nhiên với gia đình và với chính bản thân. Mỗi người là một thế giới riêng không lặp lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét