Tiểu Sử Đảng Trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học
Nguyễn Thái Học: Người anh hùng dân tộc trong lịch sử đấu tranh cận đại, người khai sinh ra Việt Nam Quốc Dân Đảng, người đề cao thể chế chính trị tự do dân chủ từ năm 1927. Người thanh niên 25 tuổi là tấm gương sáng ngời cho những tấm lòng yêu nước. Lịch sử của đảng trưởng VNQDĐ, Nguyễn Thái Học trích trong cuốn: Lịch Sử Đấu Tranh Cận Đại 1927-1954 Việt Nam Quốc Dân Đảng của Hoàng Văn Đào do trung tân in ấn của VNQDĐ, nhà xuất bản Tân Việt, in lần thứ 4.
I – ĐỜI HỌC SINH
Nguyễn Thái Học sinh năm Quý Mão (1902) tại làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Nhưng theo học bạ nhà trường thì Nguyễn Thái Học sinh ngày mồng 1 tháng 12 năm 1904. Sở dĩ có chuyện chênh lệch tuổi ấy là vì giấy khai sinh phải khai rút bớt tuổi đi, để xin vào học trường công cho hợp lệ.
Thân phụ của Nguyễn Thái Học là cụ Nguyễn Văn Hách, một nông dân chất phát hiền hậu, một nhà Nho; thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Quỳnh hiệu Diệu Tế, tính tình khẳng khái cương trực, việc tề gia nội trợ rất mực thao lược đảm đang. Gia tài của gia đình Nguyễn Thái Học gồm có 3 mẫu ruộng, một con trâu cày và 3 gian nhà gạch, 5 gian nhà tre. Ngoài những ngày giờ làm ruộng, vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học còn phụ thêm nghề dệt vải và buôn vải, lụa về bán ngay tại chợ làng Thổ Tang.
Nguyễn Thái Học có một người em gái là chị Nguyễn Thị Hiền và 3 người em trai: Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm và Nguyễn Văn Nỉ.
Năm 1906, Nguyễn Thái Học được thân phụ đưa đến thụ giáo Hán văn tại nhà một cụ Tú Tài người đồng hương.
Nguyễn Thái Học có một người em gái là chị Nguyễn Thị Hiền và 3 người em trai: Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm và Nguyễn Văn Nỉ.
Năm 1906, Nguyễn Thái Học được thân phụ đưa đến thụ giáo Hán văn tại nhà một cụ Tú Tài người đồng hương.
Năm 1913, trường Tiểu học Pháp-Việt được thiết lập tại phủ Vĩnh Tường. Nguyễn Thái Học xếp bút lông cầm bút sắt. Học hết lớp nhì, Nguyễn Thái Học vào học lớp nhất tại trường Tiểu học Pháp-Việt, Việt Trì.Năm 1921, trường Nam Sư Phạm chính thức tuyển thêm 45 học sinh năm thứ nhất, nhân dịp vừa mới khánh thành tại phố Đỗ Hữu Vị gần cửa Bắc.Trong số 45 học sinh mới trúng tuyển có Nguyễn Thái Học. Vì mới tổ chức nên nhà trường chỉ có thể cho một nửa số học sinh chừng hơn 100 người được lưu trú tại trường; còn một nửa ở ngoài được lĩnh mỗi tháng tám đồng học bổng.
Nguyễn Thái Học vì tính thích tự do nên tình nguyện xin ở ngoài, trong khi học sinh tranh nhau ở trong trường để sự học được thuận tiện và mau tấn tới. Nguyễn Thái Học rủ mấy bạn đồng lớp đến ở trọ tại hai nơi gần trường: một ở ngay phố Đỗ Hữu Vị và một ở phố Hàng Bún (Bourrin) cũng gần đấy. Cùng ở trọ với Nguyễn Thái Học còn có một nhà giáo trẻ tuổi theo học trường Cao đẳng Sư phạm là Hồ Văn Mịch.
Học được ít lâu thì xảy ra một việc khiến cho một số học sinh có đầu óc phải bực tức mà nẩy nở ra ý tưởng cách mạng. Nguyên có một tên Thược, một cựu thông ngôn lính chào mào ở Pháp về, được bổ vào làm giám thị. Thược có những cử chỉ, ngôn ngữ rất lố lăng, khả ố và một thái độ thân Pháp, khinh đồng bào, khiến cho nhiều người phải lộn tiết. Thược không nói tiếng Việt, khi cần nói với những người làm công ở trong trường, y dùng một thứ tiếng Việt pha giọng Tây, nghe rất đỗi chướng tai.
Học sinh ai cũng ghét Thược, nhiều người tìm hết cách cay độc để chế riễu, nhưng y vẫn cứ mặt rắn như sành không lay chuyển chút nào! Kỳ thực thì Thược biết lắm và căm thù những anh em học sinh tinh quái nhất, trong số có Nguyễn Thái Học. Thược rắp tâm làm hại cho kỳ được, y biết được tên Kinh là con một tên mật thám, y ngầm mua chuộc được Kinh và dùng làm chỉ điểm riêng cho y. Nhân có chuyện một học sinh bị Thược nhốt ở ttrên lầu 3 là nơi phòng ngủ (dortoire). Học sinh này cáu kỉnh la ó chửi rủa ầm ĩ, khiến Thược phải cho người lên mở cửa. Khi xuống, anh học sinh này lại xông thẳng tới Thược định hành hung. Thược liền sang nhà riêng viên giám đốc, vu cáo học sinh này đã lăng mạ người Pháp và những câu bài Pháp. Viên Giám đốc lập tức ra lệnh đuổi anh học sinh về một cách oan ức và bắt luôn một số học sinh khác hàng ngày vẫn tỏ ý ghét Thược để điều tra và tình nghi có tổ chức bí mật bài Pháp. Nhiều người bị đuổi oan, và trong trường bỗng phát sinh một luồng không khí ngờ vực rất khó thou. Nhất là sau khi có lệnh cấm học sinh không được phép túm năm tụm ba bàn chuyện. Sự kiện trên đã có ảnh hưởng khá sâu xa vào tâm hồn cách mạng của Nguyễn Thái Học.
Học được ít lâu thì xảy ra một việc khiến cho một số học sinh có đầu óc phải bực tức mà nẩy nở ra ý tưởng cách mạng. Nguyên có một tên Thược, một cựu thông ngôn lính chào mào ở Pháp về, được bổ vào làm giám thị. Thược có những cử chỉ, ngôn ngữ rất lố lăng, khả ố và một thái độ thân Pháp, khinh đồng bào, khiến cho nhiều người phải lộn tiết. Thược không nói tiếng Việt, khi cần nói với những người làm công ở trong trường, y dùng một thứ tiếng Việt pha giọng Tây, nghe rất đỗi chướng tai.
Học sinh ai cũng ghét Thược, nhiều người tìm hết cách cay độc để chế riễu, nhưng y vẫn cứ mặt rắn như sành không lay chuyển chút nào! Kỳ thực thì Thược biết lắm và căm thù những anh em học sinh tinh quái nhất, trong số có Nguyễn Thái Học. Thược rắp tâm làm hại cho kỳ được, y biết được tên Kinh là con một tên mật thám, y ngầm mua chuộc được Kinh và dùng làm chỉ điểm riêng cho y. Nhân có chuyện một học sinh bị Thược nhốt ở ttrên lầu 3 là nơi phòng ngủ (dortoire). Học sinh này cáu kỉnh la ó chửi rủa ầm ĩ, khiến Thược phải cho người lên mở cửa. Khi xuống, anh học sinh này lại xông thẳng tới Thược định hành hung. Thược liền sang nhà riêng viên giám đốc, vu cáo học sinh này đã lăng mạ người Pháp và những câu bài Pháp. Viên Giám đốc lập tức ra lệnh đuổi anh học sinh về một cách oan ức và bắt luôn một số học sinh khác hàng ngày vẫn tỏ ý ghét Thược để điều tra và tình nghi có tổ chức bí mật bài Pháp. Nhiều người bị đuổi oan, và trong trường bỗng phát sinh một luồng không khí ngờ vực rất khó thou. Nhất là sau khi có lệnh cấm học sinh không được phép túm năm tụm ba bàn chuyện. Sự kiện trên đã có ảnh hưởng khá sâu xa vào tâm hồn cách mạng của Nguyễn Thái Học.
Tâm hồn đó càng bị kích động hơn do thái độ kém giáo dục của mấy mụ đầm dạy học, như mụ Sandré mà học sinh đã đặt một biệt hiệu là “đầm sâu róm”, vì tính nết cục cằn hay gắt, hay quát tháo ầm ĩ của mụ. Một phía khác, tâm hồn đó cũng lại bị khích động do những thái độ dơ dáng của bọn phụ nữ buôn son bán phấn ở khu phố anh ở, hòa với những hành động hung hãn của bọn lính Tây ức hiếp đồng bào để làm trò cười cho chúng.
Do đó, Nguyễn Thái Học tỏ ý chán việc học mà anh thường kêu là “học mướn”. Anh không chịu học sử nước Pháp, nhưng đến khi học tới lịch sử cách mạng Pháp thì anh lại rất thích thú, rất ham đọc và còn khảo cứu thêm.
Cứ mỗi lần mụ “đầm sâu róm” dạy ám tả vào buổi sáng là y như mụ mở túi lấy mẩu bánh mì, miếng phó-mát và trái chuối tiêu ra, vừa đọc vừa ngồm ngoàm ngốn; vì thế cho nên không mấy người nghe được hết câu, lẽ dĩ nhiên là ai nấy bỏ lỗi rất nhiều.
Mỗi lần như thế, anh Học lại tỏ vẻ giận dữ, nhưng không biết làm thế nào cho mụ bỏ cách dạy học đó đi, thỉnh thoảng anh chỉ dằn mạnh bút xuống bàn hay ngáp thật lớn. Mụ Sandré biết vậy, nhưng cũng cứ bỏ qua. Một hôm anh Học nghĩ được một kế để chọc giận mụ, anh không viết nhưng lại nhắm mụ để họa hình mụ đang ngồm ngoàm ăn. Thấy vậy mụ to tiếng gọi:
- Anh Học, anh ngồi gần cửa sổ kia, anh hãy nhắc lại câu tôi vừa đọc.
Lẽ dĩ nhiên là anh Học không đọc được, anh còn đương lúng túng định lấy vở của bạn bên cạnh để đọc, thì mụ lại quát:
- Mang vở của anh lên xem nào.
Anh Học không ngần ngại mang vở lên. Mụ cầm vở quát om sòm:
- Cái gì thế này! Rồi mụ cầm vở của anh Học giơ cao lên cho học trò xem. Cả lớp cười ồ. Anh Học vẫn điềm nhiên. Mụ quay lại hỏi:
- Anh bao nhiêu tuổi mà coi người lớn thế! Nom không có vẻ học sinh tý nào!
Anh Học trả lời thong thả từng tiếng:
- Tôi 45 tuổi.
Mọi người cùng cười vang. Mụ cáu kỉnh lại quát:
- À thằng này láo! Mày lại nhạo tao phải? Ai đời 45 tuổi mà đi học trường Sư phạm bao giờ không?
Thấy anh Học vẫn trân trân đứng. Mụ càng bực mình:
- Anh sinh năm nào?
- Tôi sinh năm Bính Thìn.
Mọi người lại cười ồ. Mụ cáu:
- Bính Thìn, Bính Thìn là cái gì?
Anh Học vẫn đứng tự nhiên. Mụ kéo ghế đứng dậy chỉ vào mặt anh nói với mọi người:
- Kìa coi nó kìa, thật là nhà quê! Rồi quay lại hỏi anh Học:
- Mày quê ở làng nào?
- Tôi quê ở làng “â…h…”. Anh Học trả lời hết sức bình tĩnh.
Mọi người lại phì lên cười. Tuy mụ đầm không hiểu ra sao, nhưng thấy mọi người cười dữ quá, biết chắc câu trả lời có ý hỗn xược, mụ xầm xầm bước xuống bục tiến lại nắm lấy tay anh Học, nói:
- À thằng này láo, xuống buồng ông Giám đốc ngay với tao.
Anh Học ung dung đáp:
- Vậy tôi xin đi trước.
Vừa ra khỏi lớp, không hiểu nghĩ thế nào, mụ đầm lại lôi tay anh Học trở vào lớp, đẩy anh ngồi vào chỗ, rồi lại tiếp tục đọc ám tả, như không có chuyện gì xảy ra, nhưng mụ không còn ngồm ngoàm nữa! Nhặt mẩu bánh mì, miếng phó-mát ăn chưa hết quẳng qua cửa sổ.
Đến cuối năm thứ 3, Nguyễn Thái Học từ giã trường Sư phạm về nằm khàn ở nhà, bị Chính phủ Bảo hộ đòi lại khoản trợ cấp học bổng 3 năm.
Nằm nhà đọc sách, đến kỳ thi Đíp-lôm, Nguyễn Thái Học cũng nộp đơn ứng thí. Ngay buổi đầu thi ám tả, anh đã gặp phải viên Giám khảo người Pháp hóc búa, không có cảm tình với học sinh bản xứ là Thomas, đã đọc ám tả cho thí sinh mà Thomas chỉ đọc mỗi câu một lượt không nhắc lại. Cả phòng đều thất vọng, thí sinh nào cũng bỏ từng quãng.
Được gần nửa bài, Thomas thấy một thí sinh lớn tuổi mặc áo the thâm, tay xách mũ trắng, tay cuốn giấy thi vùng vằng tiến ra cửa.
Thomas quát hỏi:
- Ê! Anh kia đi đâu thế?
- Tôi đi ra, vì không thể thi cử như thế này được, Nguyễn Thái Học trả lời.
Thomas lại tròn mắt hỏi dữ dội:
- Tại sao?
- Ông đọc nhanh quá, mà lại đọc có một lượt, tôi không theo kịp, tôi xin bỏ cuộc.
- Sao người khác viết được?
- Xin ông thử nhìn xem, có bao nhiêu viết kịp?
Thấy anh Học đối đáp bướng bỉnh. Thomas bước xuống túm vai anh Học xoay một vòng, đẩy anh về chổ. Vừa quay lưng lên bục, đã lại thấy anh Học theo sau, và lăm le ra cửa phòng thi ra ngoài. Thomas lại quát:
- À! Anh này định làm gì thế này? Anh muốn tôi cho gọi cảnh binh dẫn anh vào nhà giam không?
Anh Học điềm tĩnh trả lời:
- Vậy tôi cứ xin ông cho tôi ra ngoài, tôi bỏ cuộc thi và nếu ông không đi gọi Cảnh binh, chính tôi cũng xin đi gọi hầu ông ngay bây giờ.
Thomas giận đến tái mặt không biết nói thế nào, lại thấy anh Học nét mặt gân guốc quả quyết, khó lòng bắt nạt nổi. Y sợ lại xảy ra chuyện tương tự như việc đã xảy ra cho y ở trường Chasseloup Laubat ở trong Nam.
Thomas liền dịu giọng bảo anh Học:
- Thôi được, anh cứ về chỗ, anh sẽ được tọai nguyện.
Thomas bảo anh Học về ngồi chỗ cũ, rồi mở cửa ra đi. Ai cũng tưởng là Thomas sẽ đi gọi cảnh binh tới dẫn anh Học đi, hay ít ra cũng đi trình ông Chủ khảo; nhưng mọi người đều đoán sai hết. Một lát sau, Thomas cùng một vị giáo sư khác, người Việt Nam, là ông Dương Quảng Hàm vào phòng thi. Thomas nhường chỗ cho ông Hàm đọc lại từ đầu bài ám tả. Nhờ đó mà một số lớn thí sinh đã không bị rớt oan.
Những mẩu chuyện này đã biểu lộ một tinh thần tranh đấu bất khuất, gặp sức đè nén nào cũng tìm cách phản ứng kịch liệt và nhanh chóng không tính toán đến hậu quả.
Dĩ nhiên là Nguyễn Thái Học không trúng tuyển kỳ thi ấy, lại nhân có kỳ thi tuyển thừa phái, các bạn học khuyên anh nên ứng thí, anh Học đã trúng tuyển; nhưng đến khi có nghị định bổ đi nhậm chức, anh Học đã bỏ không đi, mà lại xin vào học tại trường Cao đẳng Thương mại.
Trong cuốn “Mesures Politiques en L’Indochine”, Marty, Giám đốc mật thám Đông Dương đã viết: “Nguyễn Thái Học là một học sinh bướng bỉnh hay cãi nhau với thầy giáo”
Do đó, Nguyễn Thái Học tỏ ý chán việc học mà anh thường kêu là “học mướn”. Anh không chịu học sử nước Pháp, nhưng đến khi học tới lịch sử cách mạng Pháp thì anh lại rất thích thú, rất ham đọc và còn khảo cứu thêm.
Cứ mỗi lần mụ “đầm sâu róm” dạy ám tả vào buổi sáng là y như mụ mở túi lấy mẩu bánh mì, miếng phó-mát và trái chuối tiêu ra, vừa đọc vừa ngồm ngoàm ngốn; vì thế cho nên không mấy người nghe được hết câu, lẽ dĩ nhiên là ai nấy bỏ lỗi rất nhiều.
Mỗi lần như thế, anh Học lại tỏ vẻ giận dữ, nhưng không biết làm thế nào cho mụ bỏ cách dạy học đó đi, thỉnh thoảng anh chỉ dằn mạnh bút xuống bàn hay ngáp thật lớn. Mụ Sandré biết vậy, nhưng cũng cứ bỏ qua. Một hôm anh Học nghĩ được một kế để chọc giận mụ, anh không viết nhưng lại nhắm mụ để họa hình mụ đang ngồm ngoàm ăn. Thấy vậy mụ to tiếng gọi:
- Anh Học, anh ngồi gần cửa sổ kia, anh hãy nhắc lại câu tôi vừa đọc.
Lẽ dĩ nhiên là anh Học không đọc được, anh còn đương lúng túng định lấy vở của bạn bên cạnh để đọc, thì mụ lại quát:
- Mang vở của anh lên xem nào.
Anh Học không ngần ngại mang vở lên. Mụ cầm vở quát om sòm:
- Cái gì thế này! Rồi mụ cầm vở của anh Học giơ cao lên cho học trò xem. Cả lớp cười ồ. Anh Học vẫn điềm nhiên. Mụ quay lại hỏi:
- Anh bao nhiêu tuổi mà coi người lớn thế! Nom không có vẻ học sinh tý nào!
Anh Học trả lời thong thả từng tiếng:
- Tôi 45 tuổi.
Mọi người cùng cười vang. Mụ cáu kỉnh lại quát:
- À thằng này láo! Mày lại nhạo tao phải? Ai đời 45 tuổi mà đi học trường Sư phạm bao giờ không?
Thấy anh Học vẫn trân trân đứng. Mụ càng bực mình:
- Anh sinh năm nào?
- Tôi sinh năm Bính Thìn.
Mọi người lại cười ồ. Mụ cáu:
- Bính Thìn, Bính Thìn là cái gì?
Anh Học vẫn đứng tự nhiên. Mụ kéo ghế đứng dậy chỉ vào mặt anh nói với mọi người:
- Kìa coi nó kìa, thật là nhà quê! Rồi quay lại hỏi anh Học:
- Mày quê ở làng nào?
- Tôi quê ở làng “â…h…”. Anh Học trả lời hết sức bình tĩnh.
Mọi người lại phì lên cười. Tuy mụ đầm không hiểu ra sao, nhưng thấy mọi người cười dữ quá, biết chắc câu trả lời có ý hỗn xược, mụ xầm xầm bước xuống bục tiến lại nắm lấy tay anh Học, nói:
- À thằng này láo, xuống buồng ông Giám đốc ngay với tao.
Anh Học ung dung đáp:
- Vậy tôi xin đi trước.
Vừa ra khỏi lớp, không hiểu nghĩ thế nào, mụ đầm lại lôi tay anh Học trở vào lớp, đẩy anh ngồi vào chỗ, rồi lại tiếp tục đọc ám tả, như không có chuyện gì xảy ra, nhưng mụ không còn ngồm ngoàm nữa! Nhặt mẩu bánh mì, miếng phó-mát ăn chưa hết quẳng qua cửa sổ.
Đến cuối năm thứ 3, Nguyễn Thái Học từ giã trường Sư phạm về nằm khàn ở nhà, bị Chính phủ Bảo hộ đòi lại khoản trợ cấp học bổng 3 năm.
Nằm nhà đọc sách, đến kỳ thi Đíp-lôm, Nguyễn Thái Học cũng nộp đơn ứng thí. Ngay buổi đầu thi ám tả, anh đã gặp phải viên Giám khảo người Pháp hóc búa, không có cảm tình với học sinh bản xứ là Thomas, đã đọc ám tả cho thí sinh mà Thomas chỉ đọc mỗi câu một lượt không nhắc lại. Cả phòng đều thất vọng, thí sinh nào cũng bỏ từng quãng.
Được gần nửa bài, Thomas thấy một thí sinh lớn tuổi mặc áo the thâm, tay xách mũ trắng, tay cuốn giấy thi vùng vằng tiến ra cửa.
Thomas quát hỏi:
- Ê! Anh kia đi đâu thế?
- Tôi đi ra, vì không thể thi cử như thế này được, Nguyễn Thái Học trả lời.
Thomas lại tròn mắt hỏi dữ dội:
- Tại sao?
- Ông đọc nhanh quá, mà lại đọc có một lượt, tôi không theo kịp, tôi xin bỏ cuộc.
- Sao người khác viết được?
- Xin ông thử nhìn xem, có bao nhiêu viết kịp?
Thấy anh Học đối đáp bướng bỉnh. Thomas bước xuống túm vai anh Học xoay một vòng, đẩy anh về chổ. Vừa quay lưng lên bục, đã lại thấy anh Học theo sau, và lăm le ra cửa phòng thi ra ngoài. Thomas lại quát:
- À! Anh này định làm gì thế này? Anh muốn tôi cho gọi cảnh binh dẫn anh vào nhà giam không?
Anh Học điềm tĩnh trả lời:
- Vậy tôi cứ xin ông cho tôi ra ngoài, tôi bỏ cuộc thi và nếu ông không đi gọi Cảnh binh, chính tôi cũng xin đi gọi hầu ông ngay bây giờ.
Thomas giận đến tái mặt không biết nói thế nào, lại thấy anh Học nét mặt gân guốc quả quyết, khó lòng bắt nạt nổi. Y sợ lại xảy ra chuyện tương tự như việc đã xảy ra cho y ở trường Chasseloup Laubat ở trong Nam.
Thomas liền dịu giọng bảo anh Học:
- Thôi được, anh cứ về chỗ, anh sẽ được tọai nguyện.
Thomas bảo anh Học về ngồi chỗ cũ, rồi mở cửa ra đi. Ai cũng tưởng là Thomas sẽ đi gọi cảnh binh tới dẫn anh Học đi, hay ít ra cũng đi trình ông Chủ khảo; nhưng mọi người đều đoán sai hết. Một lát sau, Thomas cùng một vị giáo sư khác, người Việt Nam, là ông Dương Quảng Hàm vào phòng thi. Thomas nhường chỗ cho ông Hàm đọc lại từ đầu bài ám tả. Nhờ đó mà một số lớn thí sinh đã không bị rớt oan.
Những mẩu chuyện này đã biểu lộ một tinh thần tranh đấu bất khuất, gặp sức đè nén nào cũng tìm cách phản ứng kịch liệt và nhanh chóng không tính toán đến hậu quả.
Dĩ nhiên là Nguyễn Thái Học không trúng tuyển kỳ thi ấy, lại nhân có kỳ thi tuyển thừa phái, các bạn học khuyên anh nên ứng thí, anh Học đã trúng tuyển; nhưng đến khi có nghị định bổ đi nhậm chức, anh Học đã bỏ không đi, mà lại xin vào học tại trường Cao đẳng Thương mại.
Trong cuốn “Mesures Politiques en L’Indochine”, Marty, Giám đốc mật thám Đông Dương đã viết: “Nguyễn Thái Học là một học sinh bướng bỉnh hay cãi nhau với thầy giáo”
II ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyễn Thái Học vóc người tầm thước đậm đà, cao 1 mét 65, mặt vuông trán rộng, miệng rộng môi dầy, râu quai nón, hai tai to và dài. Đặc biệt là răng vổ, nhưng cười tươi và có duyên. Tính tình hồn nhiên phóng khoáng, thẳng thắn cương quyết và có một đức tự tin lạlùng.
Cuộc đời sống của Nguyễn Thái Học thực rất xuềnh xoàng, giản dị, từ y phục đến giày dép không hề chải chuốt. Ngoài thú hút thuốc lào và thỉnh thoảng nhai trầu, không thích một thứ gì khác! Nguyễn Thái Học rất bình dị, miễn là ăn để sống, món ăn thích thú nhất của ông là món “Phở Bò”, suốt đời không ham muốn cao sang. Về tiền tài: mỗi khi trong túi có tiền là dốc hết tiêu chung với anh em, khi cạn túi cũng hỏi ở anh em lấy một cách tự nhiên không ngại ngùng e lệ. Giấc ngủ đối với Nguyễn Thái Học thực rất là quan trọng, khi buồn ngủ, mặc dầu gặp việc khó khăn đến đâu cũng phải ngủ, dẫu rằng chỉ một giấc ngắn độ 15 phút, ngáy thật to. Khi tỉnh dậy, giải quyết mọi việc rất sáng suốt và chu đáo. Khi ngủ thường hay nằm sấp, hai chân quắp lên trên mông.
Tuy đã ra đời lâu năm, Nguyễn Thái Học còn giữ thổ âm của làng mình, là dùng lộn hai chữ L với N. Còn một tính đặc biệt, là mỗi khi đương tập trung tư tưởng suy nghĩ một vấn đề gì, thì mặc dầu những người ngồi ngay trước mặt nói chuyện hoặc hỏi han điều gì cũng không hề để ý.
Nguyễn Thái Học có một người vợ ở quê nhà là Nguyễn Thị Cửu do sự đính ước của đôi bên cha mẹ khi Nguyễn Thái Học còn thơ ấu. Tuy chị Cửu đã về làm dâu nhà họ Nguyễn lâu năm; nhưng cặp vợ chồng ấy không bao giờ lại chung sống với nhau. Đến khi Nguyễn Thái Học dấn thân vào cuộc đời cách mạng, Thái Học gửi thư về thăm cha mẹ, tạ tội bất hiếu không năng về thăm. Cuối cùng xin phép cha mẹ cho chị Nguyễn Thị Cửu được tự do đi lấy chồng.
Cuộc đời sống của Nguyễn Thái Học thực rất xuềnh xoàng, giản dị, từ y phục đến giày dép không hề chải chuốt. Ngoài thú hút thuốc lào và thỉnh thoảng nhai trầu, không thích một thứ gì khác! Nguyễn Thái Học rất bình dị, miễn là ăn để sống, món ăn thích thú nhất của ông là món “Phở Bò”, suốt đời không ham muốn cao sang. Về tiền tài: mỗi khi trong túi có tiền là dốc hết tiêu chung với anh em, khi cạn túi cũng hỏi ở anh em lấy một cách tự nhiên không ngại ngùng e lệ. Giấc ngủ đối với Nguyễn Thái Học thực rất là quan trọng, khi buồn ngủ, mặc dầu gặp việc khó khăn đến đâu cũng phải ngủ, dẫu rằng chỉ một giấc ngắn độ 15 phút, ngáy thật to. Khi tỉnh dậy, giải quyết mọi việc rất sáng suốt và chu đáo. Khi ngủ thường hay nằm sấp, hai chân quắp lên trên mông.
Tuy đã ra đời lâu năm, Nguyễn Thái Học còn giữ thổ âm của làng mình, là dùng lộn hai chữ L với N. Còn một tính đặc biệt, là mỗi khi đương tập trung tư tưởng suy nghĩ một vấn đề gì, thì mặc dầu những người ngồi ngay trước mặt nói chuyện hoặc hỏi han điều gì cũng không hề để ý.
Nguyễn Thái Học có một người vợ ở quê nhà là Nguyễn Thị Cửu do sự đính ước của đôi bên cha mẹ khi Nguyễn Thái Học còn thơ ấu. Tuy chị Cửu đã về làm dâu nhà họ Nguyễn lâu năm; nhưng cặp vợ chồng ấy không bao giờ lại chung sống với nhau. Đến khi Nguyễn Thái Học dấn thân vào cuộc đời cách mạng, Thái Học gửi thư về thăm cha mẹ, tạ tội bất hiếu không năng về thăm. Cuối cùng xin phép cha mẹ cho chị Nguyễn Thị Cửu được tự do đi lấy chồng.
III- ĐỜI CÁCH MẠNG
Về hoạt động cách mạng lúc ban đầu của Nguyễn Thái Học. Tác giả đã trình bày đầy đủ ở Chương I, Thiên thứ Nhất, dưới Mục đề “Thành lập VNQDĐ”. Nay nhắc lại, thiết tưởng là quá thừa! Vậy xin trình bày tiếp từ sau ngày Nam Đồng Thư Xã đóng cửa, nhà giáo Phạm Tuấn Tài phải đổi lên trường Tiểu học Pháp-Việt, Tuyên Quang vào giữa năm 1927. Nguyễn Thái Học cùng Hồ Văn Mịch dọn đến ở luôn trụ sở Nam Đồng Thư Xã với Nhượng Tống. Họ đã trở nên những người bạn cùng ăn hết nhịn với nhau.
Từ sau ngày VNQDĐ chính thức thành lập, căn lầu 1 Nam Đồng Thư Xã trở nên trụ sở thường trực của Tổng Bộ. Lớp nhà dưới là gia đình bà Cổ, làm nghề bán xôi, cháo rong, và luôn nấu cơm tháng cho Nguyễn Thái Học và các đồng chí của họ Nguyễn ăn.
Căn lầu của Nguyễn Thái Học ở, bề dài không quá 9 mét, bề ngang 3 mét rưỡi, vỏn vẹn chỉ có một bộ ghế ngựa gỗ tạp, 1 chiếc bàn và 4 chiếc ghế cũng bằng gỗ tạp, vừa dùng làm bàn viết lẫn bàn ăn. Góc này vài chiếc chiếu vất ngổn ngang, góc kia mấy chiếc va-li bẹp với một mớ quần áo thay, mà thợ giặt chưa kịp đến lấy.
Mỗi khi các đồng chí từ bốn phương tới thủ đô đều tìm đến từng lầu số 6 này. Trước khi thổi cơm, bà Cổ ở dưới nhà thường sai cô con gái nhỏ của bà trạc 13, 14 tuổi, thò đầu lên thang gác hỏi bữa nay có mấy người ăn?
Cơm bưng lên, anh em cứ việc ăn, cơm bình dân, mỗi người mỗi bửa có 5 xu. Bà Cổ cứ việc ghi vào sổ, cuối tháng sẽ tính với ông Học sau. Chẳng mấy tháng mà bà Cổ đã nhận được đủ số tiền, nhưng bà vẫn vui vẻ bưng cơm rót nước như thường, không bao giờ có nửa lời ta thán! “Bát cơm Phiếu mẫu trả ơn ngàn vàng”. Chúng tôi nghĩ thế, nhưng chẳng bao giờ làm được! Trái lại, bà còn bị thực dân làm khó dễ vì chúng tôi.
Các đồng chí, ai muốn nghỉ ngơi chốc lát hay muốn ngủ lại đêm cứ việc trải chiếu xuống căn gác mà nằm, nếu giường chật. Quần áo thay đổi lẫn lộn, bộ nào vừa ai nấy mặc, không cần biết là của ai! Đồng chí nào nếu túi sẵn tiền thì bỏ ra khao nhau chầu phở hay bún chả; nếu gặp khi anh em túi rỗng, thì cứ việc gọi xôi, cháo của bà Cổ, rồi biên vào sổ tính toán sau.
Nguyễn Thái Học luôn luôn khuyên nhủ đồng chí: “Chúng ta phải gạt bỏ hết những tính ích kỷ và tự ái, tự kiêu, thì chúng ta mới trở thành người cách mạng được!”
Muốn biết rõ Nguyễn Thái Học không gì hơn là nghe lời bình phẩm của Hồ Văn Mịch, một người bạn thân, một đồng chí đầy mưu lược, luôn luôn ở bên cạnh Nguyễn Thái Học nói: “Anh Học bề ngoài tuy nóng nảy, nhưng mưu việc gì thì rất nhiều cơ trí, mà đãi người thì rất mực chân thành.”. Thực quả vậy, sau ngày Đảng bị bại lộ, Nguyễn Thái Học trốn thoát. Một hôm có cuộc họp được triệu tập tại làng Dương Quang thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Các đồng chí đã tiếp tục đến địa điểm họp từ chiều hôm trước. Thám tử được tin mật báo với Pháp, đêm ấy Giám binh Bắc Ninh đem lính Khố Xanh bí mật đến mai phục xung quanh làng Dương Quang.
Nguyễn Thái Học không hề được biết sự bao vây ấy. Sáng sớm ngày hôm sau, khăn đống áo the, tay ôm cặp, tay xách ô, ung dung tiến đến làng Dương Quang. Thình lình gặp lính xét hỏi, Thái Học thản nhiên trả lời là nho sĩ ở huyện được phái về lập biên bản. Từ dáng điệu đến cử chỉ thực giống hệt như nho sĩ ở huyện. Lính Khố Xanh không chút nghi ngờ, để Nguyễn Thái Học tự do ra đi. Nguyễn Thái Học ung dung tiến vào làng, rồi tìm đường tắt rút ra khỏi vòng vây. Trái lại, Phạm Văn Hể đến từ chiều hôm trước, gần sáng thấy động, hoảng hốt chạy ra khỏi làng, bị lính tình nghi giữ lại, đem về giam tại Bắc Ninh, mãi ít lâu sau mới được thả.
Lại một lần khác, vào cuối tháng 11 năm 1929, tại làng Quỳnh Khê thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, một cuộc họp được tổ chức tại nhà một đồng chí là Phó tổng Vịnh. Có mật báo, tri huyện sở tại là Nguyễn Ngọc Liễn đem lính cơ về vây làng Quỳnh Khê từ hồi 4 giờ sáng, đợi đến 6 giờ vào khám xét nhà Phó tổng Vịnh.
Nguyễn Thái Học đương ngủ ngáy như sấm, đồng chí vào lay ông báo động, lay đến 2, 3 lần ông mới tỉnh dậy, điềm nhiên đi xuống nhà tá điền ngủ, trút bỏ hết quần áo lại, lấy bộ quần áo của thợ cầy mặc vào, rồi đội nón lá vác vồ tiến ra phía ruộng sau nhà Phó tổng Vịnh cùng đập đất với sáu nông phu.
Đúng 6 giờ, Tri huyện Liễn dẫn lính vào khám xét nhà Phó tổng Vịnh, không thấy gì kéo nhau ra về.
Một hôm Nguyễn Thái Học phải đích thân xuống Hải Phòng để chủ tọa một phiên họp quan trọng.
Ông bắt đầu đáp xe lửa từ ga Lạc Đạo vào hồi 4 giờ 20 phút sáng. Y phục vận theo đúng kiểu các người dân quê Đình Dù mỗi khi ra tỉnh: quần màu cháo lòng, áo the thâm và khăn đóng, vai vác cây dù, nách kẹp đôi dép.
Đã đặc biệt chú ý từ trước, khi lên xe Nguyễn Thái Học đã lựa chỗ ngồi vào chiếc ghế góc toa hạng ba, nơi ánh đèn bớt sáng.
Không ngờ khi xe lửa sắp chạy, thình lình có hai tên thám tử một Việt và một Pháp lại dẫn một người bị còng tay lên ngồi đối diện anh. Thoáng nhìn, Nguyễn Thái Học đã nhận ngay ra người bị còng tay là một đồng chí, anh Lý Hai Kim ở Chi bộ Nam Quách (Hải Dương).
Một Chi bộ đã bị vỡ lở, và lo ngại Hai Kim nhận ra anh, lỡ phát xuất một cử chỉ nào sơ hở, khiến anh bị lộ hình tích thì nguy to. Nguyễn Thái Học định xuống xe để đi chuyến sau, nhưng xe lửa đã bắt đầu chuyển bánh nhanh rồi! Muốn lánh mặt qua ngồi toa xe khác, thì phải qua mặt hai tên thám tử, mà chúng thường chăm chú nhìn theo, thật là tiến thoái lưỡng nan! Nguyễn Thái Học đành kéo vạt áo the che mặt giả vờ ngủ.
Về phần Lý Hai Kim, anh cũng nhận ra được Nguyễn Thái Học, ngước nhìn Học tỏ vẻ hiểu ý.
Để xe lửa chạy một hồi lâu, Nguyễn Thái Học đứng dậy, dằn giọng nói với bà già kế bên, cố ý để cho hai tên thám tử và anh Hai Kim nghe được:
- Bà coi giùm tôi chiếc dù và chiếc va-li này, tôi đi tiểu một chút.
Rồi anh thản nhiên đi thẳng về phía cầu tiêu, mặc cái nhìn chòng chọc soi mói của tên thám tử Pháp lai.
Thừa khi xe lửa từ từ tiến tới ga Vật Cách, Nguyễn Thái Học vội trút bỏ chiếc áo dài the thâm, rồi mở cửa cầu tiêu nhảy xuống đường kêu xe kéo thuê đi Hải Phòng.
Khi người phu xe tới gần cầu Hạ Lý, nhận xét tình hình, thấy tình hình không thể qua cầu đàng hoàng được vì thấy lính gác cầu rất đông, Nguyễn Thái Học liền tỏ vẻ thân thiện điều đình với người phu xe cho anh thuê lại chiếc xe cùng bộ quần áo với giá 35 đồng bạc, gồm cả tiền bảo đảm chiếc xe khi không may bị mất.
Nguyễn Thái Học lẳng lặng kéo chiếc xe không trên cầu từ phía Hạ Lý sang.
- Anh kia, sao không đi vào lề mà lại nghênh ngang giữa đường, muốn xe lửa cán chết phải không? Người cảnh binh gác cầu quát to.
Anh kéo xe gần tới lề đường, cách đấy vài chục thước, một tên thám tử mặc thường phục, vẫy Nguyễn Thái Học lại.
- Có giấy tờ gì không? Lại đây coi!
- Chào xếp, xếp có về, tôi kéo về, tôi vẫn kéo xếp đến sở làm đấy mà! Nguyễn Thái Học đáp.
Lời chào lễ phép, bất ngờ làm tên thám tử ngạc nhiên, đang phân vân tự hỏi, có lẽ đây chính là anh phu xe quen.
Giữa khi ấy từ phía bên kia cầu, một chiếc xe hơi mui trần trong đó có mấy người Pháp đang bon bon đổ dốc.
- Ô-tô kìa! Dẹp vào bên mà đi đi! Tên thám tử ra lệnh.
Dưới chân cầu Hạ Lý về phía Hải Phòng, một quán nước chè có một thanh niên và một thiếu nữ ăn vận lối quê ngồi đợi Nguyễn Thái Học từ lâu, ấy là Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Thị Giang.
Đến trước quán nước, người phu xe ngừng lại, nói với thanh niên trong quán: “Mời ông đi xe.”
Nguyễn Văn Chấn đứng dậy, ung dung bước lên xe và nói to:
- Về đường phố Các Cụt.
Về tới nơi an toàn, anh em đều vui cười và nói:
- Hãy giữ lấy bộ quần áo phu xe kia, để sau này giao cho Viện Bảo Tàng.
Thế rồi không bao lâu cuộc Tổng Khởi Nghĩa thất bại. Bỗng có tin Nguyễn Thái Học bị bắt ở ấp Cổ Vịt đưa về giam tại ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội. Và dưới đây là một vài giai thoại về Nguyễn Thái Học:
Giới phụ nữ Pháp ở Hà Nội yêu cầu Arnoux, giám đốc sở mật thám Bắc Việt, cho họ được đi coi mặt mũi lãnh tụ VNQDĐ mà từ ngày Tổng Khởi Nghĩa họ vẫn lo sợ cho số phận của họ không biết sẽ ra sao?
Arnoux vốn muốn trưng với phái đẹp, và cũng muốn nhân dịp khoe công, nên y nhận lời cho họ đi coi mặt Nguyễn Thái Học. Arnoux thân dẫn vào ngục thất Hỏa Lò một đoàn hàng trăm phụ nữ Pháp. Cửa sà-lim mở ra, một ả đầm chừng 20 tuổi buột miệng hỏi:
- Où! Où! Où est le Général Nguyễn Thái Học? (Ông tướng Nguyễn Thái Học ở đâu?)
Arnoux chặn lời ả và nói:
- Il n’est qu’un chef des brigants! (Nó chỉ là một tên tướng ăn cướp!)
Nguyễn Thái Học nghe tiếng nghiêm nhặt nói:
- Ông Arnoux, ông hãy nên có lễ độ một chút!
- Lễ độ à! Đây anh biết lễ độ!
Vừa nói, y vừa giơ cây ba-toong đánh vào mặt nhà lãnh tụ cách mạng rất mạnh, trúng vào hàm răng, máu trào ra đầy miệng, làm Nguyễn Thái Học gẫy mất hai cái răng cửa.
Chân bị cùm tay bị còng, Nguyễn Thái Học mỉm cười nói:
- Tao đã thấy rõ bộ mặt văn minh của nước Pháp chúng mày là thế đấy!
Than ôi! Mối hận thù đối với bè lũ thực dân Pháp biết đến ngày nào quên đi được; hỡi anh em cách mạng Quốc Gia!
Giữa lúc ấy, một mụ đầm nạ giòng đang ôm con chó lông xù sửng sốt về câu trả lời của Nguyễn Thái Học, lỡ tay làm con chó nhảy xuống đất chạy tung tăng trong dãy hành lang. Arnoux vội vàng đuổi theo bắt con chó, ôm nó lên và kính cẩn trao lại cho bà chủ nó. Đám phụ nữ nhìn Nguyễn Thái Học một lúc rồi kéo nhau ra.
Ngoài số phụ nữ Pháp và những yếu nhân trong giới thực dân Pháp, còn có một người Việt Nam được vào xem mặt Nguyễn Thái Học là Hoàng Trọng Phu, Tổng đốc tỉnh Hà Đông.
Ông quan công bộc trung thành nhất của Pháp này theo chân viên Dự thẩm Coppin tới sà-lim giam Nguyễn Thái Học. Cửa phòng vừa mở, chỉ vào mặt một người nằm ngửa trên sà-lim, hai chân xỏ trong lỗ cùm, hai cổ tay xích bắt tréo lại, mắt nhìn lên trần suốt ngày đêm. Coppin nói:
- Thưa Đại nhân, tôi xin giới thiệu đây là kẻ đã làm cho cháu ruột của ngài bị giết!
Hoàng Trọng Phu như không chú ý câu nói ấy, hỏi luôn Nguyễn Thái Học rằng:
- Thầy bị bắt trong lúc còn súng lục, lựu đạn ở trong người, vậy tại sao thày lại không dùng võ khí ấy mà thoát thân?
- Chỉ vì tôi không muốn giết mấy người phu tuần đã bắt tôi, bởi họ chỉ là những kẻ thừa hành chỉ thị của bọn quan thày Pháp. Nếu tôi gặp bọn tham quan ô lại đục khoét lương dân thì súng và lựu đạn của tôi sẽ không từ!
Hoàng Trọng Phu mỉm cười ra về không nói câu nào nữa!
Ngày mồng 2 tháng 3, Hội Đồng Đề Hình Bắc Việt cho phép gia quyến Nguyễn Thái Học được vào ngục thất Hỏa Lò thăm. Nguyễn Thái Học lạy tạ mẹ già rồi nói: “Đắc trung thất hiếu, xin mẹ tha thứ cho con.”
Từ sau ngày VNQDĐ chính thức thành lập, căn lầu 1 Nam Đồng Thư Xã trở nên trụ sở thường trực của Tổng Bộ. Lớp nhà dưới là gia đình bà Cổ, làm nghề bán xôi, cháo rong, và luôn nấu cơm tháng cho Nguyễn Thái Học và các đồng chí của họ Nguyễn ăn.
Căn lầu của Nguyễn Thái Học ở, bề dài không quá 9 mét, bề ngang 3 mét rưỡi, vỏn vẹn chỉ có một bộ ghế ngựa gỗ tạp, 1 chiếc bàn và 4 chiếc ghế cũng bằng gỗ tạp, vừa dùng làm bàn viết lẫn bàn ăn. Góc này vài chiếc chiếu vất ngổn ngang, góc kia mấy chiếc va-li bẹp với một mớ quần áo thay, mà thợ giặt chưa kịp đến lấy.
Mỗi khi các đồng chí từ bốn phương tới thủ đô đều tìm đến từng lầu số 6 này. Trước khi thổi cơm, bà Cổ ở dưới nhà thường sai cô con gái nhỏ của bà trạc 13, 14 tuổi, thò đầu lên thang gác hỏi bữa nay có mấy người ăn?
Cơm bưng lên, anh em cứ việc ăn, cơm bình dân, mỗi người mỗi bửa có 5 xu. Bà Cổ cứ việc ghi vào sổ, cuối tháng sẽ tính với ông Học sau. Chẳng mấy tháng mà bà Cổ đã nhận được đủ số tiền, nhưng bà vẫn vui vẻ bưng cơm rót nước như thường, không bao giờ có nửa lời ta thán! “Bát cơm Phiếu mẫu trả ơn ngàn vàng”. Chúng tôi nghĩ thế, nhưng chẳng bao giờ làm được! Trái lại, bà còn bị thực dân làm khó dễ vì chúng tôi.
Các đồng chí, ai muốn nghỉ ngơi chốc lát hay muốn ngủ lại đêm cứ việc trải chiếu xuống căn gác mà nằm, nếu giường chật. Quần áo thay đổi lẫn lộn, bộ nào vừa ai nấy mặc, không cần biết là của ai! Đồng chí nào nếu túi sẵn tiền thì bỏ ra khao nhau chầu phở hay bún chả; nếu gặp khi anh em túi rỗng, thì cứ việc gọi xôi, cháo của bà Cổ, rồi biên vào sổ tính toán sau.
Nguyễn Thái Học luôn luôn khuyên nhủ đồng chí: “Chúng ta phải gạt bỏ hết những tính ích kỷ và tự ái, tự kiêu, thì chúng ta mới trở thành người cách mạng được!”
Muốn biết rõ Nguyễn Thái Học không gì hơn là nghe lời bình phẩm của Hồ Văn Mịch, một người bạn thân, một đồng chí đầy mưu lược, luôn luôn ở bên cạnh Nguyễn Thái Học nói: “Anh Học bề ngoài tuy nóng nảy, nhưng mưu việc gì thì rất nhiều cơ trí, mà đãi người thì rất mực chân thành.”. Thực quả vậy, sau ngày Đảng bị bại lộ, Nguyễn Thái Học trốn thoát. Một hôm có cuộc họp được triệu tập tại làng Dương Quang thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Các đồng chí đã tiếp tục đến địa điểm họp từ chiều hôm trước. Thám tử được tin mật báo với Pháp, đêm ấy Giám binh Bắc Ninh đem lính Khố Xanh bí mật đến mai phục xung quanh làng Dương Quang.
Nguyễn Thái Học không hề được biết sự bao vây ấy. Sáng sớm ngày hôm sau, khăn đống áo the, tay ôm cặp, tay xách ô, ung dung tiến đến làng Dương Quang. Thình lình gặp lính xét hỏi, Thái Học thản nhiên trả lời là nho sĩ ở huyện được phái về lập biên bản. Từ dáng điệu đến cử chỉ thực giống hệt như nho sĩ ở huyện. Lính Khố Xanh không chút nghi ngờ, để Nguyễn Thái Học tự do ra đi. Nguyễn Thái Học ung dung tiến vào làng, rồi tìm đường tắt rút ra khỏi vòng vây. Trái lại, Phạm Văn Hể đến từ chiều hôm trước, gần sáng thấy động, hoảng hốt chạy ra khỏi làng, bị lính tình nghi giữ lại, đem về giam tại Bắc Ninh, mãi ít lâu sau mới được thả.
Lại một lần khác, vào cuối tháng 11 năm 1929, tại làng Quỳnh Khê thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, một cuộc họp được tổ chức tại nhà một đồng chí là Phó tổng Vịnh. Có mật báo, tri huyện sở tại là Nguyễn Ngọc Liễn đem lính cơ về vây làng Quỳnh Khê từ hồi 4 giờ sáng, đợi đến 6 giờ vào khám xét nhà Phó tổng Vịnh.
Nguyễn Thái Học đương ngủ ngáy như sấm, đồng chí vào lay ông báo động, lay đến 2, 3 lần ông mới tỉnh dậy, điềm nhiên đi xuống nhà tá điền ngủ, trút bỏ hết quần áo lại, lấy bộ quần áo của thợ cầy mặc vào, rồi đội nón lá vác vồ tiến ra phía ruộng sau nhà Phó tổng Vịnh cùng đập đất với sáu nông phu.
Đúng 6 giờ, Tri huyện Liễn dẫn lính vào khám xét nhà Phó tổng Vịnh, không thấy gì kéo nhau ra về.
Một hôm Nguyễn Thái Học phải đích thân xuống Hải Phòng để chủ tọa một phiên họp quan trọng.
Ông bắt đầu đáp xe lửa từ ga Lạc Đạo vào hồi 4 giờ 20 phút sáng. Y phục vận theo đúng kiểu các người dân quê Đình Dù mỗi khi ra tỉnh: quần màu cháo lòng, áo the thâm và khăn đóng, vai vác cây dù, nách kẹp đôi dép.
Đã đặc biệt chú ý từ trước, khi lên xe Nguyễn Thái Học đã lựa chỗ ngồi vào chiếc ghế góc toa hạng ba, nơi ánh đèn bớt sáng.
Không ngờ khi xe lửa sắp chạy, thình lình có hai tên thám tử một Việt và một Pháp lại dẫn một người bị còng tay lên ngồi đối diện anh. Thoáng nhìn, Nguyễn Thái Học đã nhận ngay ra người bị còng tay là một đồng chí, anh Lý Hai Kim ở Chi bộ Nam Quách (Hải Dương).
Một Chi bộ đã bị vỡ lở, và lo ngại Hai Kim nhận ra anh, lỡ phát xuất một cử chỉ nào sơ hở, khiến anh bị lộ hình tích thì nguy to. Nguyễn Thái Học định xuống xe để đi chuyến sau, nhưng xe lửa đã bắt đầu chuyển bánh nhanh rồi! Muốn lánh mặt qua ngồi toa xe khác, thì phải qua mặt hai tên thám tử, mà chúng thường chăm chú nhìn theo, thật là tiến thoái lưỡng nan! Nguyễn Thái Học đành kéo vạt áo the che mặt giả vờ ngủ.
Về phần Lý Hai Kim, anh cũng nhận ra được Nguyễn Thái Học, ngước nhìn Học tỏ vẻ hiểu ý.
Để xe lửa chạy một hồi lâu, Nguyễn Thái Học đứng dậy, dằn giọng nói với bà già kế bên, cố ý để cho hai tên thám tử và anh Hai Kim nghe được:
- Bà coi giùm tôi chiếc dù và chiếc va-li này, tôi đi tiểu một chút.
Rồi anh thản nhiên đi thẳng về phía cầu tiêu, mặc cái nhìn chòng chọc soi mói của tên thám tử Pháp lai.
Thừa khi xe lửa từ từ tiến tới ga Vật Cách, Nguyễn Thái Học vội trút bỏ chiếc áo dài the thâm, rồi mở cửa cầu tiêu nhảy xuống đường kêu xe kéo thuê đi Hải Phòng.
Khi người phu xe tới gần cầu Hạ Lý, nhận xét tình hình, thấy tình hình không thể qua cầu đàng hoàng được vì thấy lính gác cầu rất đông, Nguyễn Thái Học liền tỏ vẻ thân thiện điều đình với người phu xe cho anh thuê lại chiếc xe cùng bộ quần áo với giá 35 đồng bạc, gồm cả tiền bảo đảm chiếc xe khi không may bị mất.
Nguyễn Thái Học lẳng lặng kéo chiếc xe không trên cầu từ phía Hạ Lý sang.
- Anh kia, sao không đi vào lề mà lại nghênh ngang giữa đường, muốn xe lửa cán chết phải không? Người cảnh binh gác cầu quát to.
Anh kéo xe gần tới lề đường, cách đấy vài chục thước, một tên thám tử mặc thường phục, vẫy Nguyễn Thái Học lại.
- Có giấy tờ gì không? Lại đây coi!
- Chào xếp, xếp có về, tôi kéo về, tôi vẫn kéo xếp đến sở làm đấy mà! Nguyễn Thái Học đáp.
Lời chào lễ phép, bất ngờ làm tên thám tử ngạc nhiên, đang phân vân tự hỏi, có lẽ đây chính là anh phu xe quen.
Giữa khi ấy từ phía bên kia cầu, một chiếc xe hơi mui trần trong đó có mấy người Pháp đang bon bon đổ dốc.
- Ô-tô kìa! Dẹp vào bên mà đi đi! Tên thám tử ra lệnh.
Dưới chân cầu Hạ Lý về phía Hải Phòng, một quán nước chè có một thanh niên và một thiếu nữ ăn vận lối quê ngồi đợi Nguyễn Thái Học từ lâu, ấy là Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Thị Giang.
Đến trước quán nước, người phu xe ngừng lại, nói với thanh niên trong quán: “Mời ông đi xe.”
Nguyễn Văn Chấn đứng dậy, ung dung bước lên xe và nói to:
- Về đường phố Các Cụt.
Về tới nơi an toàn, anh em đều vui cười và nói:
- Hãy giữ lấy bộ quần áo phu xe kia, để sau này giao cho Viện Bảo Tàng.
Thế rồi không bao lâu cuộc Tổng Khởi Nghĩa thất bại. Bỗng có tin Nguyễn Thái Học bị bắt ở ấp Cổ Vịt đưa về giam tại ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội. Và dưới đây là một vài giai thoại về Nguyễn Thái Học:
Giới phụ nữ Pháp ở Hà Nội yêu cầu Arnoux, giám đốc sở mật thám Bắc Việt, cho họ được đi coi mặt mũi lãnh tụ VNQDĐ mà từ ngày Tổng Khởi Nghĩa họ vẫn lo sợ cho số phận của họ không biết sẽ ra sao?
Arnoux vốn muốn trưng với phái đẹp, và cũng muốn nhân dịp khoe công, nên y nhận lời cho họ đi coi mặt Nguyễn Thái Học. Arnoux thân dẫn vào ngục thất Hỏa Lò một đoàn hàng trăm phụ nữ Pháp. Cửa sà-lim mở ra, một ả đầm chừng 20 tuổi buột miệng hỏi:
- Où! Où! Où est le Général Nguyễn Thái Học? (Ông tướng Nguyễn Thái Học ở đâu?)
Arnoux chặn lời ả và nói:
- Il n’est qu’un chef des brigants! (Nó chỉ là một tên tướng ăn cướp!)
Nguyễn Thái Học nghe tiếng nghiêm nhặt nói:
- Ông Arnoux, ông hãy nên có lễ độ một chút!
- Lễ độ à! Đây anh biết lễ độ!
Vừa nói, y vừa giơ cây ba-toong đánh vào mặt nhà lãnh tụ cách mạng rất mạnh, trúng vào hàm răng, máu trào ra đầy miệng, làm Nguyễn Thái Học gẫy mất hai cái răng cửa.
Chân bị cùm tay bị còng, Nguyễn Thái Học mỉm cười nói:
- Tao đã thấy rõ bộ mặt văn minh của nước Pháp chúng mày là thế đấy!
Than ôi! Mối hận thù đối với bè lũ thực dân Pháp biết đến ngày nào quên đi được; hỡi anh em cách mạng Quốc Gia!
Giữa lúc ấy, một mụ đầm nạ giòng đang ôm con chó lông xù sửng sốt về câu trả lời của Nguyễn Thái Học, lỡ tay làm con chó nhảy xuống đất chạy tung tăng trong dãy hành lang. Arnoux vội vàng đuổi theo bắt con chó, ôm nó lên và kính cẩn trao lại cho bà chủ nó. Đám phụ nữ nhìn Nguyễn Thái Học một lúc rồi kéo nhau ra.
Ngoài số phụ nữ Pháp và những yếu nhân trong giới thực dân Pháp, còn có một người Việt Nam được vào xem mặt Nguyễn Thái Học là Hoàng Trọng Phu, Tổng đốc tỉnh Hà Đông.
Ông quan công bộc trung thành nhất của Pháp này theo chân viên Dự thẩm Coppin tới sà-lim giam Nguyễn Thái Học. Cửa phòng vừa mở, chỉ vào mặt một người nằm ngửa trên sà-lim, hai chân xỏ trong lỗ cùm, hai cổ tay xích bắt tréo lại, mắt nhìn lên trần suốt ngày đêm. Coppin nói:
- Thưa Đại nhân, tôi xin giới thiệu đây là kẻ đã làm cho cháu ruột của ngài bị giết!
Hoàng Trọng Phu như không chú ý câu nói ấy, hỏi luôn Nguyễn Thái Học rằng:
- Thầy bị bắt trong lúc còn súng lục, lựu đạn ở trong người, vậy tại sao thày lại không dùng võ khí ấy mà thoát thân?
- Chỉ vì tôi không muốn giết mấy người phu tuần đã bắt tôi, bởi họ chỉ là những kẻ thừa hành chỉ thị của bọn quan thày Pháp. Nếu tôi gặp bọn tham quan ô lại đục khoét lương dân thì súng và lựu đạn của tôi sẽ không từ!
Hoàng Trọng Phu mỉm cười ra về không nói câu nào nữa!
Ngày mồng 2 tháng 3, Hội Đồng Đề Hình Bắc Việt cho phép gia quyến Nguyễn Thái Học được vào ngục thất Hỏa Lò thăm. Nguyễn Thái Học lạy tạ mẹ già rồi nói: “Đắc trung thất hiếu, xin mẹ tha thứ cho con.”
IV-ĐỜI TÌNH ÁI
Từ sau vụ ám sát Bazin, Nguyễn Thái Học đeo hai cái án xử vắng mặt với trát truy nã rất gắt gao đến các hang cùng ngõ hẹp. Nguyễn Thái Học luôn luôn phải hóa trang, khi khoác áo cà sa đóng vai nhà tu hành khổ hạnh đi khuyến giáo; lúc khoác áo thương nhân đóng vai bác lái trâu, lái thuốc lào; hoặc anh nông phu vác cuốc vác vồ ra đồng làm ruộng; đôi khi còn hóa trang giả phụ nữ ra đồng nhổ mạ cấy lúa; cũng có khi đóng vai ông lý Đình Dù vác chiếc ô rách ra chơi Kinh kỳ thăm bà con họ hàng.
Gặp bao hoàn cảnh khó khăn! Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng hăng say hơn bao giờ hết! Công tác chính là công tác kiện toàn lại Đảng tiến tới giai đoạn cấp bách Tổng Khởi Nghĩa. Vấn đề liên lạc được coi như vấn đề hệ trọng, liên lạc luôn phải thay đổi đồng chí để tránh tai mắt nhòm ngó của mật thám. Nên từ đấy được ủy thác cho mấy nữ đảng viên: Đỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Tình, Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang… Cô Giang là nữ liên lạc đứng vào hạng xuất sắc nhất. Không những thế, cô Giang còn là một tay tuyên truyền giỏi, tổ chức được Binh đoàn Yên Bái, Binh đoàn này làm nên cuộc Tổng Khởi Nghĩa đêm mồng 9 rạng mồng 10 hồi tháng 2 năm 1930.
Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng mạnh mẽ trong thời kỳ ấy, một phần lớn là nhờ sự giúp đỡ của nhân dân; và cũng một phần phải nhờ ở tai mắt và sự khuyên ngăn khuyến khích của Nguyễn Thị Giang và một đồng chí luôn luôn ở bên cạnh để bảo vệ là Sư Trạch, hai người này là hai cánh tay của Nguyễn Thái Học vậy. Nhiều khi Thái Học phải cải trang tạm lánh ở vùng Hòa Bình, Ninh Bình, Phú Thọ, nơi rừng núi bao la. Nguyễn Thị Giang luôn luôn đem tin tức cho Thái Học và lại đem chỉ thị của Thái Học truyền đi các nơi. Bất cứ một công tác nào, dầu khó khăn đến đâu, được Đảng trao phó, cô Giang đều thi hành có kết quả.
Theo điều lệ của VNQDĐ thì không kết nạp phụ nữ vào Đảng, mà chỉ có sự kết nạp vào Đoàn. Trường hợp Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang là một trường hợp đặc biệt. Vì trước ngày thành lập VNQDĐ, hai cô Bắc và Giang đã ở trong tổ chức cách mạng bí mật của cụ Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Giang. Đến khi cụ Nguyễn Khắc Nhu tham gia VNQDĐ thì lý đương nhiên cả tổ chức của cụ cũng đều được tham gia VNQDĐ.
Bắc, Giang, Tỉnh là 3 chị em ruột, con một nhà Nho ở phủ Lạng Thương tỉnh Bắc Giang. Vốn nhà thanh bạch, nhưng cả 3 cô đều có công, dung, ngôn hạnh hoàn toàn. Hai cô chị lại được học ít nhiều Hán văn, chữ Pháp theo hết bậc Tiểu học. Cô Giang lại thông minh sắc sảo và tài ba hơn cô chị nhiều. Mặt hơi rỗ huê, nhan sắc tuy không đẹp lắm, nhưng duyên dáng và lịch sự vô cùng. Vì nhà nghèo nên cô phải thôi học sớm, về làm nghề dạy trẻ em, nên người ta thường gọi cô giáo Giang.
Một đôi trai tài gái sắc, lại cùng chung chí hướng, cùng cảnh ngộ, cùng có dịp gần gũi bên nhau luôn, nên chẳng mấy lúc đã nảy lên những tiếng đàn đồng điệu. Họ đã cảm thông và đồng quan điểm như nhau, họ cảm thấy yêu nhau, và đã cảm thấy không thể xa cách được nhau.
Một buổi chiều hè, trên đường từ Phú Thọ về miền xuôi, Nguyễn Thái Học cùng Nguyễn Thị Giang cùng ghé vào đền Hùng Vương để hội đàm với Phó Đức Chính, Lê Hữu Cảnh và Đặng Trần Nghiệp. Sau khi họp bàn xong, Học và Giang rủ nhau ra ngoài hóng gió.
Đêm đã vào khuya, Lê Hữu Cảnh bước ra sân đền, với ý định gọi hai người vào ngủ. Cảnh thấy Nguyễn Thái Học vì quá mệt mỏi đã ngồi tựa lưng vào gốc cây ngủ say, bên cạnh cô Giang ngồi tay phe phẩy quạt xua muỗi và trông chừng. Lê Hữu Cảnh lặng lẽ quay gót vào mật bàn với Phó Đức Chính và Đặng Trần Nghiệp: có dịp thuận tiện nên yêu cầu Đảng bộ cho phép Học, Giang được thành đôi lứa kết hôn.
Một lần khác lại có dịp qua đền Hùng Vương. Thái Học cùng cô Giang vào chiêm bái, trước bàn thờ Tổ, khói nhang nghi ngút, hai người cùng nhau thề thốt nặng lời. Thề thế nào cũng lấy nhau nhưng chỉ thành chính thức sau khi cách mạng thành công, và được Đảng cho phép. Thấy Nguyễn Thái Học đeo khẩu súng lục, cô Giang xin được đeo, để sau này Nguyễn Thái Học có vì Tổ Quốc mà mệnh hệ nào thì Giang cũng quyết dùng khẩu súng này để chết theo!
Tình yêu làmột việc riêng, nhưng nhiệm vụ đối với Đảng là một việc công. Bất cứ công tác gì dầu khó đến đâu, Nguyễn Thị Giang đều làm chu đáo.
Cuộc Tổng Khởi Nghĩa thất bại. Quay về Bắc Ninh, Bắc Giang, Nguyễn Thị Giang đang chuẩn bị việc đánh chiếm một đồn binh Khố Xanh để làm căn cứ địa thì được tin Nguyễn Thái Học đã bị bắt, ban đầu cô còn nghi ngờ, vì rất có thể thực dân cho phao đồn tin ấy để trấn áp dư luận, khủng bố tinh thần những đảng viên còn thoát ở vòng ngoài, chứ chưa chắc đã là sự thực, cô Giang liền thu xếp mọi việc rồi tức tốc sang Hà Nội, tìm đến Lê Hữu Cảnh. Cảnh cho biết Nguyễn Thái Học đã bị bắt thật rồi! Ngoài anh Học ra, Sư Trạch, Phó Đức Chính, Nguyễn Như Liên cũng đều bị bắt hết.
Nghe Lê Hữu Cảnh thuật lại xong, cô Giang nghẹn ngào gần như tắt thở. Cô rất lo cho tiền đồ của Đảng, vận mệnh của Tổ Quốc. Tinh thần cô Giang trở nên khủng hoảng, bỗng dưng khóc, bỗng dưng cười, gần như một người mất trí, người điên, khiến các đồng chí của cô có mặt ở Hà Nội, phải tìm hết lời an ủi và tìm đủ mọi cách để bảo vệ tính mạng cho cô có thể ở yên tại Hà Nội, để gián tiếp thăm nom và giữ vững tinh thầncho Nguyễn Thái Học.
Một ý nghĩ táo bạo thoáng xuất hiện trong đầu óc cô Giang, là phải làm thế nào để cứu thoát được Nguyễn Thái Học và các đồng chí bây giờ? Cô Giang đem ý định bàn với các đồng chí tổ chức một cuộc bạo động để cướp lại tự do cho Nguyễn Thái Học, các đồng chí và tất cả những đồng bào bị thực dân giam cầm trong ngục thất Hỏa Lò. Trong ngục thất Hỏa Lò, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bí mật viết một tờ báo lấy tên là “Tù Nhân Báo” để cổ võ tinh thần các đồng chí và tuyên truyền cách mạng trong các trại giam. Những vật liệu viết báo đều do tài vận động của cô Giang qua tay Giám thị và lính Lê Dương có phận sự canh gác ngục thất Hỏa Lò. Cô Giang còn tìm đủ mọi cách để gởi quà bánh và thông báo tin tức ở ngoài vào cho Nguyễn Thái Học. Thái Học cũng luôn luôn gởi thư ra khuyến khích cô Giang nên tích cực hợp tác với các đồng chí ở ngoài để cải tổ phụng sự Đảng hầu làm tròn sứ mạng giải phóng dân tộc ở tương lai.
Đến chiều ngày 16 tháng 6, một đồng chí tất tả chạy đến báo cho cô Giang biết: “Tối nay Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí sẽ bị đưa lên Yên Bái để hành hình.”
Tin đâu sét đánh ngang tai! Cô Giang lo lắng bồi hồi, ngồi không yên mà đứng cũng không yên! Đợi trời đổ tối, cô Giang dấu khẩu súng lục trong mình và mấy trái bom trong tay nải, rồi lẳng lặng cùng mấy đồng chí tìm những con đường vắng tiến ra ga Hàng Cỏ; nhưng không thể làm thế nào lên được trên xe lửa; sau nhờ có mấy đồng chí đốt than và thợ máy ngầm đưa quần áo cải trang, cô Giang và mấy đồng chí mới lên được toa xe lửa.
Dưới vòm trời đen tối, sương sa mờ mịt, gió lộng từng cơn, bánh xe lửa rít lên không gian im lặng, lòng Nguyễn Thị Giang càng se thắt lại. Cùng đi một chuyến xe mà không được gặp nhau, dầu chỉ nói được một câu thôi! Bao nhiêu tình yêu thương, bao nhiêu nỗi căm hờn rồn rập cả vào tâm hồn nhà nữ cách mạng trẻ tuổi ấy! Hai giòng lệ trào xuống. Thôi thế là hết! Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi! Nguyễn Thị Giang mím miệng lắc đầu lảo đảo bước xuống ga Yên Bái.
Trống điểm tàn canh, gà gáy rồn báo sáng. Nguyễn Thị Giang cùng hai đồng chí cải trang thành nông phu địa phương lặng lẽ tiến đến pháp trường.
Trước sức mạnh của thực dân, hàng rào lính, cảnh binh và mật thám vây kín, không cho phép một ai được bén mảng đến gần. Nguyễn Thị Giang đành xen vào đứng lẫn trong đám người đến xem từ phía xa nhìn vào. Một lần nữa âm mưu phá pháp trường lại thất bại! Cô Giang cố nén nỗi căm hờn uất hận, không hề lộ ra nét mặt để một ai hay!
Cô Giang đã chứng kiến suốt từ đầu đến cuối tấn bi kịch chém giết dã man tàn bạo của quân cướp nước. Còn sự đau đớn nào hơn mỗi khi nhìn thấy lưỡi dao phập xuống, đầu một đồng chí rơi, máu đào phun ra; rồi cuối cùng đến người mà mình tôn thờ yêu quý. Những giòng máu trong cổ tuôn ra là những mũi dao đâm vào con tim người liệt nữ.
Tấn thảm kịch hạ màn vào đúng hồi 5 giờ 35 phút sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930. Cô Giang cố gắng lấy lại bình tĩnh, lặng lẽ bước theo đám người lui về nhà trọ, nằm vật xuống giường nghỉ ngơi chốt lát rồi mua giấy bút viết hai bức thư “Tuyệt Mệnh” trên ba trang giấy trắng khổ hẹp bằng bút chì xanh, đề ngày 17 tháng 6, nguyên văn như sau:
Gặp bao hoàn cảnh khó khăn! Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng hăng say hơn bao giờ hết! Công tác chính là công tác kiện toàn lại Đảng tiến tới giai đoạn cấp bách Tổng Khởi Nghĩa. Vấn đề liên lạc được coi như vấn đề hệ trọng, liên lạc luôn phải thay đổi đồng chí để tránh tai mắt nhòm ngó của mật thám. Nên từ đấy được ủy thác cho mấy nữ đảng viên: Đỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Tình, Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang… Cô Giang là nữ liên lạc đứng vào hạng xuất sắc nhất. Không những thế, cô Giang còn là một tay tuyên truyền giỏi, tổ chức được Binh đoàn Yên Bái, Binh đoàn này làm nên cuộc Tổng Khởi Nghĩa đêm mồng 9 rạng mồng 10 hồi tháng 2 năm 1930.
Nguyễn Thái Học hoạt động cách mạng mạnh mẽ trong thời kỳ ấy, một phần lớn là nhờ sự giúp đỡ của nhân dân; và cũng một phần phải nhờ ở tai mắt và sự khuyên ngăn khuyến khích của Nguyễn Thị Giang và một đồng chí luôn luôn ở bên cạnh để bảo vệ là Sư Trạch, hai người này là hai cánh tay của Nguyễn Thái Học vậy. Nhiều khi Thái Học phải cải trang tạm lánh ở vùng Hòa Bình, Ninh Bình, Phú Thọ, nơi rừng núi bao la. Nguyễn Thị Giang luôn luôn đem tin tức cho Thái Học và lại đem chỉ thị của Thái Học truyền đi các nơi. Bất cứ một công tác nào, dầu khó khăn đến đâu, được Đảng trao phó, cô Giang đều thi hành có kết quả.
Theo điều lệ của VNQDĐ thì không kết nạp phụ nữ vào Đảng, mà chỉ có sự kết nạp vào Đoàn. Trường hợp Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang là một trường hợp đặc biệt. Vì trước ngày thành lập VNQDĐ, hai cô Bắc và Giang đã ở trong tổ chức cách mạng bí mật của cụ Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Giang. Đến khi cụ Nguyễn Khắc Nhu tham gia VNQDĐ thì lý đương nhiên cả tổ chức của cụ cũng đều được tham gia VNQDĐ.
Bắc, Giang, Tỉnh là 3 chị em ruột, con một nhà Nho ở phủ Lạng Thương tỉnh Bắc Giang. Vốn nhà thanh bạch, nhưng cả 3 cô đều có công, dung, ngôn hạnh hoàn toàn. Hai cô chị lại được học ít nhiều Hán văn, chữ Pháp theo hết bậc Tiểu học. Cô Giang lại thông minh sắc sảo và tài ba hơn cô chị nhiều. Mặt hơi rỗ huê, nhan sắc tuy không đẹp lắm, nhưng duyên dáng và lịch sự vô cùng. Vì nhà nghèo nên cô phải thôi học sớm, về làm nghề dạy trẻ em, nên người ta thường gọi cô giáo Giang.
Một đôi trai tài gái sắc, lại cùng chung chí hướng, cùng cảnh ngộ, cùng có dịp gần gũi bên nhau luôn, nên chẳng mấy lúc đã nảy lên những tiếng đàn đồng điệu. Họ đã cảm thông và đồng quan điểm như nhau, họ cảm thấy yêu nhau, và đã cảm thấy không thể xa cách được nhau.
Một buổi chiều hè, trên đường từ Phú Thọ về miền xuôi, Nguyễn Thái Học cùng Nguyễn Thị Giang cùng ghé vào đền Hùng Vương để hội đàm với Phó Đức Chính, Lê Hữu Cảnh và Đặng Trần Nghiệp. Sau khi họp bàn xong, Học và Giang rủ nhau ra ngoài hóng gió.
Đêm đã vào khuya, Lê Hữu Cảnh bước ra sân đền, với ý định gọi hai người vào ngủ. Cảnh thấy Nguyễn Thái Học vì quá mệt mỏi đã ngồi tựa lưng vào gốc cây ngủ say, bên cạnh cô Giang ngồi tay phe phẩy quạt xua muỗi và trông chừng. Lê Hữu Cảnh lặng lẽ quay gót vào mật bàn với Phó Đức Chính và Đặng Trần Nghiệp: có dịp thuận tiện nên yêu cầu Đảng bộ cho phép Học, Giang được thành đôi lứa kết hôn.
Một lần khác lại có dịp qua đền Hùng Vương. Thái Học cùng cô Giang vào chiêm bái, trước bàn thờ Tổ, khói nhang nghi ngút, hai người cùng nhau thề thốt nặng lời. Thề thế nào cũng lấy nhau nhưng chỉ thành chính thức sau khi cách mạng thành công, và được Đảng cho phép. Thấy Nguyễn Thái Học đeo khẩu súng lục, cô Giang xin được đeo, để sau này Nguyễn Thái Học có vì Tổ Quốc mà mệnh hệ nào thì Giang cũng quyết dùng khẩu súng này để chết theo!
Tình yêu làmột việc riêng, nhưng nhiệm vụ đối với Đảng là một việc công. Bất cứ công tác gì dầu khó đến đâu, Nguyễn Thị Giang đều làm chu đáo.
Cuộc Tổng Khởi Nghĩa thất bại. Quay về Bắc Ninh, Bắc Giang, Nguyễn Thị Giang đang chuẩn bị việc đánh chiếm một đồn binh Khố Xanh để làm căn cứ địa thì được tin Nguyễn Thái Học đã bị bắt, ban đầu cô còn nghi ngờ, vì rất có thể thực dân cho phao đồn tin ấy để trấn áp dư luận, khủng bố tinh thần những đảng viên còn thoát ở vòng ngoài, chứ chưa chắc đã là sự thực, cô Giang liền thu xếp mọi việc rồi tức tốc sang Hà Nội, tìm đến Lê Hữu Cảnh. Cảnh cho biết Nguyễn Thái Học đã bị bắt thật rồi! Ngoài anh Học ra, Sư Trạch, Phó Đức Chính, Nguyễn Như Liên cũng đều bị bắt hết.
Nghe Lê Hữu Cảnh thuật lại xong, cô Giang nghẹn ngào gần như tắt thở. Cô rất lo cho tiền đồ của Đảng, vận mệnh của Tổ Quốc. Tinh thần cô Giang trở nên khủng hoảng, bỗng dưng khóc, bỗng dưng cười, gần như một người mất trí, người điên, khiến các đồng chí của cô có mặt ở Hà Nội, phải tìm hết lời an ủi và tìm đủ mọi cách để bảo vệ tính mạng cho cô có thể ở yên tại Hà Nội, để gián tiếp thăm nom và giữ vững tinh thầncho Nguyễn Thái Học.
Một ý nghĩ táo bạo thoáng xuất hiện trong đầu óc cô Giang, là phải làm thế nào để cứu thoát được Nguyễn Thái Học và các đồng chí bây giờ? Cô Giang đem ý định bàn với các đồng chí tổ chức một cuộc bạo động để cướp lại tự do cho Nguyễn Thái Học, các đồng chí và tất cả những đồng bào bị thực dân giam cầm trong ngục thất Hỏa Lò. Trong ngục thất Hỏa Lò, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bí mật viết một tờ báo lấy tên là “Tù Nhân Báo” để cổ võ tinh thần các đồng chí và tuyên truyền cách mạng trong các trại giam. Những vật liệu viết báo đều do tài vận động của cô Giang qua tay Giám thị và lính Lê Dương có phận sự canh gác ngục thất Hỏa Lò. Cô Giang còn tìm đủ mọi cách để gởi quà bánh và thông báo tin tức ở ngoài vào cho Nguyễn Thái Học. Thái Học cũng luôn luôn gởi thư ra khuyến khích cô Giang nên tích cực hợp tác với các đồng chí ở ngoài để cải tổ phụng sự Đảng hầu làm tròn sứ mạng giải phóng dân tộc ở tương lai.
Đến chiều ngày 16 tháng 6, một đồng chí tất tả chạy đến báo cho cô Giang biết: “Tối nay Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí sẽ bị đưa lên Yên Bái để hành hình.”
Tin đâu sét đánh ngang tai! Cô Giang lo lắng bồi hồi, ngồi không yên mà đứng cũng không yên! Đợi trời đổ tối, cô Giang dấu khẩu súng lục trong mình và mấy trái bom trong tay nải, rồi lẳng lặng cùng mấy đồng chí tìm những con đường vắng tiến ra ga Hàng Cỏ; nhưng không thể làm thế nào lên được trên xe lửa; sau nhờ có mấy đồng chí đốt than và thợ máy ngầm đưa quần áo cải trang, cô Giang và mấy đồng chí mới lên được toa xe lửa.
Dưới vòm trời đen tối, sương sa mờ mịt, gió lộng từng cơn, bánh xe lửa rít lên không gian im lặng, lòng Nguyễn Thị Giang càng se thắt lại. Cùng đi một chuyến xe mà không được gặp nhau, dầu chỉ nói được một câu thôi! Bao nhiêu tình yêu thương, bao nhiêu nỗi căm hờn rồn rập cả vào tâm hồn nhà nữ cách mạng trẻ tuổi ấy! Hai giòng lệ trào xuống. Thôi thế là hết! Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi! Nguyễn Thị Giang mím miệng lắc đầu lảo đảo bước xuống ga Yên Bái.
Trống điểm tàn canh, gà gáy rồn báo sáng. Nguyễn Thị Giang cùng hai đồng chí cải trang thành nông phu địa phương lặng lẽ tiến đến pháp trường.
Trước sức mạnh của thực dân, hàng rào lính, cảnh binh và mật thám vây kín, không cho phép một ai được bén mảng đến gần. Nguyễn Thị Giang đành xen vào đứng lẫn trong đám người đến xem từ phía xa nhìn vào. Một lần nữa âm mưu phá pháp trường lại thất bại! Cô Giang cố nén nỗi căm hờn uất hận, không hề lộ ra nét mặt để một ai hay!
Cô Giang đã chứng kiến suốt từ đầu đến cuối tấn bi kịch chém giết dã man tàn bạo của quân cướp nước. Còn sự đau đớn nào hơn mỗi khi nhìn thấy lưỡi dao phập xuống, đầu một đồng chí rơi, máu đào phun ra; rồi cuối cùng đến người mà mình tôn thờ yêu quý. Những giòng máu trong cổ tuôn ra là những mũi dao đâm vào con tim người liệt nữ.
Tấn thảm kịch hạ màn vào đúng hồi 5 giờ 35 phút sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930. Cô Giang cố gắng lấy lại bình tĩnh, lặng lẽ bước theo đám người lui về nhà trọ, nằm vật xuống giường nghỉ ngơi chốt lát rồi mua giấy bút viết hai bức thư “Tuyệt Mệnh” trên ba trang giấy trắng khổ hẹp bằng bút chì xanh, đề ngày 17 tháng 6, nguyên văn như sau:
Bức Thứ Nhất:
“Thưa Thày, Mẹ,
Con chết là vì hoàn cảnh bó buộc con. Không báo được thù nhà, rửa được nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở Đền Hùng.
Giờ con tìm về chỗ quê cha đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con.
Đứa con dâu bất hiếu kính lạy,
Con chết là vì hoàn cảnh bó buộc con. Không báo được thù nhà, rửa được nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở Đền Hùng.
Giờ con tìm về chỗ quê cha đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con.
Đứa con dâu bất hiếu kính lạy,
Nguyễn Thị Giang.”
Bức Thứ Hai:
“Anh đã là người yêu nước!
Không làm tròn được nghĩa vụ cứu quốc!
Anh giữ lấy tấm linh hồn cao cả để về chiêu binh rèn lính ở dưới suối vàng!
Phải chịu đựng nhục nhã mới có ngày mong được vẻ vang! Các bạn đồng chí phải sống lại sau anh để đánh đổ cường quyền mà cứu lấy đồng bào đau khổ.”
“Thân không giúp ích cho đời!
Thù không trả được cho người tình chung!
Dẫu rằng đương độ trẻ trung,
Quyết vì dân chúng thề lòng hy sinh;
Con đường tiến bộ mông mênh,
Éo le hoàn cảnh buộc mình biết sao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào,
Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây!
Dẫu rằng chút phận thơ ngây,
Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên;
Chết đi dạ những buồn phiền,
Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình!
Đảng kỳ phất phới trên thành,
Tủi thân không được chết vinh dưới cờ!
Cực lòng nhỡ bước sa cơ,
Chết sầu chết thảm có thừa sót sa,
Thế ru! Đời thế ru mà.
Đời mà ai biết! Người mà ai hay!”
Không làm tròn được nghĩa vụ cứu quốc!
Anh giữ lấy tấm linh hồn cao cả để về chiêu binh rèn lính ở dưới suối vàng!
Phải chịu đựng nhục nhã mới có ngày mong được vẻ vang! Các bạn đồng chí phải sống lại sau anh để đánh đổ cường quyền mà cứu lấy đồng bào đau khổ.”
“Thân không giúp ích cho đời!
Thù không trả được cho người tình chung!
Dẫu rằng đương độ trẻ trung,
Quyết vì dân chúng thề lòng hy sinh;
Con đường tiến bộ mông mênh,
Éo le hoàn cảnh buộc mình biết sao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào,
Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây!
Dẫu rằng chút phận thơ ngây,
Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên;
Chết đi dạ những buồn phiền,
Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình!
Đảng kỳ phất phới trên thành,
Tủi thân không được chết vinh dưới cờ!
Cực lòng nhỡ bước sa cơ,
Chết sầu chết thảm có thừa sót sa,
Thế ru! Đời thế ru mà.
Đời mà ai biết! Người mà ai hay!”
Nguyễn Thị Giang
Viết xong hai bức tâm thư, cô Giang ra chợ mua mấy vuông vải trắng thắt ngang đầu, và ngay buổi chiều tối hôm ấy, cô đáp xe lửa trở về Vĩnh Yên. Tờ mờ sáng hôm sau, cô Giang trở về làng Thổ Tang, vào mái nhà xưa của Nguyễn Thái Học, báo tin Thái Học đã bị hành hình rồi lạy tạ cụ ông và cụ bà Nguyễn Văn Hách, trối trăng lại mấy lời tâm sự, tháo chiếc đồng hồ đương đeo tay tặng cho Nguyễn Văn Lâm, mặt sau đồng hồ có khắc chữ “G”, rồi long thong như người mất trí tiến ra cái quán bán nước trà xanh dưới gốc cây đề, tục gọi là xóm Mới, thuộc xã Đông Vệ, giáp quốc lộ 2, cách làng Thổ Tang ngót một cây số.
Ngồi uống bát nước trà xanh, nghĩ đến tình nhà nợ nước, mà lòng đau xót chua cay, tinh thần cô rất là rối loạn; nhưng chí đã quyết định, cô liền từ biệt bà chủ quán ra đứng dưới gốc cây đề, hướng mặt về làng Thổ Tang, rút khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng Vương ra kết liễu đời mình; hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930, tức ngày 22 tháng 5 năm Canh Ngọ (22 tuổi).
Một vụ án mạng, hương lý xã Đông Vệ cấp báo với Tri phủ Vĩnh Tường. Phủ cấp báo lên Tỉnh, Công sứ Vĩnh Yên đánh điện về sở mật thám Hà Nội.
Thi thể cô Giang nằm dưới gốc cây đề, bên cạnh có khẩu súng lục phơi sương nắng cho mãi đến hồi 16 giờ ngày hôm sau, bọn thực dân mới kéo nhau đến. Arnoux còn đem theo Thanh Giang và Nguyễn Quý từ Hà Nội lên để nhận diện.
Viện cớ khám nghiệm, Chính quyền thực dân bắt lột hết quần áo cô Giang. Khi khám xét xong, không cho phép mặc lại rồi hạ lệnh cho Tri phủ Vĩnh Tường cùng hương lý sở tại mai táng chứ không cho phép gia đình Nguyễn Thái Học làm phận sự ấy.
Công sứ Vĩnh Yên lại ra lệnh bắt đào huyệt sâu hơn 3 mét, trên đắp thành nấm tròn, bắt dân sở tại phải làm điếm canh nơi gần mộ, cho mãi đến cuối năm 1930 mới bãi lệnh.
Khách bộ hành qua đấy thường thấy phủ kín trên nấm mồ nhà nữ cách mạng Nguyễn Thị Giang những bó hoa tươi thắm, và những nén nhang khói tỏa nghi ngút suốt 5 canh. Một chiến sĩ vô danh thời ấy đã vịnh bài thơ:
Sống nhục sao bằng sự thác vinh!
Nước non cho vẹn kiếp chung tình.
Lưỡi dao xử tử chàng không ngại!
Tiếng súng quyên sinh thiếp cũng đành!
Một tấm can tràng trời đất thảm,
Ngàn thu vẹn tiết quỷ thần kinh
Cuộc đời xá kể chi thành bại,
Trai đã trung thì gái phải trinh!
Ngồi uống bát nước trà xanh, nghĩ đến tình nhà nợ nước, mà lòng đau xót chua cay, tinh thần cô rất là rối loạn; nhưng chí đã quyết định, cô liền từ biệt bà chủ quán ra đứng dưới gốc cây đề, hướng mặt về làng Thổ Tang, rút khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng Vương ra kết liễu đời mình; hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930, tức ngày 22 tháng 5 năm Canh Ngọ (22 tuổi).
Một vụ án mạng, hương lý xã Đông Vệ cấp báo với Tri phủ Vĩnh Tường. Phủ cấp báo lên Tỉnh, Công sứ Vĩnh Yên đánh điện về sở mật thám Hà Nội.
Thi thể cô Giang nằm dưới gốc cây đề, bên cạnh có khẩu súng lục phơi sương nắng cho mãi đến hồi 16 giờ ngày hôm sau, bọn thực dân mới kéo nhau đến. Arnoux còn đem theo Thanh Giang và Nguyễn Quý từ Hà Nội lên để nhận diện.
Viện cớ khám nghiệm, Chính quyền thực dân bắt lột hết quần áo cô Giang. Khi khám xét xong, không cho phép mặc lại rồi hạ lệnh cho Tri phủ Vĩnh Tường cùng hương lý sở tại mai táng chứ không cho phép gia đình Nguyễn Thái Học làm phận sự ấy.
Công sứ Vĩnh Yên lại ra lệnh bắt đào huyệt sâu hơn 3 mét, trên đắp thành nấm tròn, bắt dân sở tại phải làm điếm canh nơi gần mộ, cho mãi đến cuối năm 1930 mới bãi lệnh.
Khách bộ hành qua đấy thường thấy phủ kín trên nấm mồ nhà nữ cách mạng Nguyễn Thị Giang những bó hoa tươi thắm, và những nén nhang khói tỏa nghi ngút suốt 5 canh. Một chiến sĩ vô danh thời ấy đã vịnh bài thơ:
Sống nhục sao bằng sự thác vinh!
Nước non cho vẹn kiếp chung tình.
Lưỡi dao xử tử chàng không ngại!
Tiếng súng quyên sinh thiếp cũng đành!
Một tấm can tràng trời đất thảm,
Ngàn thu vẹn tiết quỷ thần kinh
Cuộc đời xá kể chi thành bại,
Trai đã trung thì gái phải trinh!
V- GIA ĐÌNH NGUYỄN THÁI HỌC
Làng Thổ Tang, quê hương Nguyễn Thái Học quy vuông 3 cây số, đông giáp làng Sơn Tang, tây giáp làng Lũng Ngoại, nam giáp làng Phương Viên, Thượng Chưng, bắc giáp quốc lộ 2. Chỗ rẽ vào làng tục gọi ngã ba Gốc Đề, tức là nơi Nguyễn Thị Giang tự tử.
Nguyễn Thái Học có tất cả 4 người em: Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Văn Nỉ.
Nguyễn Văn Nho tính tình giống anh. Năm 1928 còn là học sinh lớp nhất trường Tiểu học Pháp-Việt, Việt Trì, bị thực dân ra lệnh đuổi ra khỏi trường, vì là em của Nguyễn Thái Học. Nguyễn Văn Nho bắt đầu theo Nguyễn Thái Học dấn thân vào con đường cách mạng. Bị Hội Đồng Đề Hình kết án xử tử vì hai tội: giết Phạm Huy Du và làm kinh tài cho Đảng rất táo bạo.
Nguyễn Văn Lâm, người em thứ tư, đương theo học lớp nhất trường Tiểu học Vĩnh Tường, cũng bị thực dân ra lệnh đuổi. Lâm là người rất thông minh, tính tình khảng khái, trở về nhà mua sách báo tự học, thông thạo cả tiếng Pháp, Anh và Nhật; cũng tự đọc sách nghiên cứu mà trở nên một nhiếp ảnh viên lành nghề.
Hồi tháng 6 năm 1946, Trần Huy Liệu lên diễn thuyết tại trụ sở UBKCHC phủ Vĩnh Tường. Nhân dịp Trần Huy Liệu ghé vào thăm vị từ mẫu Nguyễn Thái Học. Nguyễn Văn Lâm chỉ vào mặt Trần Huy Liệu mà nói:
- Gia đình tao không thèm chơi với tên phản Đảng, phản Quốc, cút đi ngay!
Rồi tìm gạch liệng, Trần Huy Liệu phải tự rút lui. Đến cuối năm 1947, quân đội Liên Hiệp Pháp hành quân tấn công thượng du Bắc Việt. Một toán lính nhảy dù xuống địa phương Trình Diện, cách làng Thổ Tang 9 cây số; một toán khác nhảy dù xuống Đồi Me thuộc khu vực ga Chống (Bạch Hạc), cách làng Thổ Tang 3 cây số, cùng tiến vây chặt trụ sở UBKCHC huyện do Việt Minh đặt tại làng Thổ Tang.
Hay tin Pháp quân đổ bộ, dân làng Thổ Tang bỏ chạy hết, chỉ còn một số rất ít không chạy kịp, trong số đó có Nguyễn Văn Lâm, bị Pháp quân bắt tập trung ở đình làng. Pháp quân dụ Lâm suốt cả tiếng đồng hồ, nhưng Lâm nhất định không chịu theo, còn mắng lại:
- Gia đình tao là gia đình cách mạng, hai anh em tao đã chết bởi bàn tay chúng mày; tao không bao giờ lại đi theo quân cướp nước.
Lâm nhất định không theo, Pháp nhất định giết. Lâm trả lời:
- Nếu chúng mày muốn giết tao, hãy đưa tao về nhà hãy giết.
Theo ý muốn của Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân đưa về nhà. Đứng dưới cây dâu già, Lâm vạch áo phanh ngực cho Pháp bắn.
Giết xong Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân quay vào đốt nhà cướp trâu, bắt lợn, gà, rồi kéo nhau đi. Hôm ấy là ngày 19 tháng 11 năm 1947.
Nguyễn Văn Nỉ, người em út của NguyễnThái Học vì còn nhỏ tuổi, nên mãi đến năm 1945 mới tham gia cách mạng. Được theo học nhiều lớp quân, chính của Đảng. Đến đầu năm 1948, Nguyễn Văn Nỉ theo các đồng chí rút sang Trung Hoa. Năm 1949, Hồng quân lan tràn khắp lục địa Trung Hoa, Nguyễn Văn Nỉ cùng một số đồng chí bị mắc kẹt không kịp trở về Việt Nam.
Gia đình Nguyễn Thái Học lại còn hy sinh cả người chú đồng chí là Nguyễn Quang Triểu, người ném bom Hà Nội đêm mồng 10 tháng 2 năm 1930, cùng lên máy chém với Nguyễn Văn Nho.
Gia đình Nguyễn Thái Học có một cháu trai độc nhất là Nguyễn Thái Tuấn, năm nay vào khoảng 20, là con của Nguyễn Văn Lâm, giòng máu cuối cùng của một gia đình hy sinh cả cho Tổ Quốc (1967).
Viết đến đây chúng tôi không thể không nói đến một chuyện đã xảy ra vào hồi năm 1953, để chứng tỏ tính tình cương trực của vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học. Nguyên vào hồi tháng 7 năm 1953, khi ấy Nguyễn Hữu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt kinh lý tỉnh Vĩnh Yên, qua phủ lỵ Vĩnh Tường (làng Thổ Tang), phái Quận trưởng vào mời vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học ra Quận đường để tiếp kiến nhưng vị từ mẫu ấy khước từ. Trước khi ra về, Nguyễn Hữu Trí trao hai ngàn đồng cho Quận trưởng nhờ đưa kính biếu nhưng vị từ mẫu ấy cũng nhất định không nhận mặc dầu Quận trưởng Vĩnh Tường đã cầu khẩn hết lời. Một lần khác, thấy vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học làm ruộng nhưng không có trâu cày, Quận trưởng Vĩnh Tường đích thân dắt một con trâu đến kính biếu cũng bị từ chối.
Nguyễn Thái Học có tất cả 4 người em: Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm, Nguyễn Văn Nỉ.
Nguyễn Văn Nho tính tình giống anh. Năm 1928 còn là học sinh lớp nhất trường Tiểu học Pháp-Việt, Việt Trì, bị thực dân ra lệnh đuổi ra khỏi trường, vì là em của Nguyễn Thái Học. Nguyễn Văn Nho bắt đầu theo Nguyễn Thái Học dấn thân vào con đường cách mạng. Bị Hội Đồng Đề Hình kết án xử tử vì hai tội: giết Phạm Huy Du và làm kinh tài cho Đảng rất táo bạo.
Nguyễn Văn Lâm, người em thứ tư, đương theo học lớp nhất trường Tiểu học Vĩnh Tường, cũng bị thực dân ra lệnh đuổi. Lâm là người rất thông minh, tính tình khảng khái, trở về nhà mua sách báo tự học, thông thạo cả tiếng Pháp, Anh và Nhật; cũng tự đọc sách nghiên cứu mà trở nên một nhiếp ảnh viên lành nghề.
Hồi tháng 6 năm 1946, Trần Huy Liệu lên diễn thuyết tại trụ sở UBKCHC phủ Vĩnh Tường. Nhân dịp Trần Huy Liệu ghé vào thăm vị từ mẫu Nguyễn Thái Học. Nguyễn Văn Lâm chỉ vào mặt Trần Huy Liệu mà nói:
- Gia đình tao không thèm chơi với tên phản Đảng, phản Quốc, cút đi ngay!
Rồi tìm gạch liệng, Trần Huy Liệu phải tự rút lui. Đến cuối năm 1947, quân đội Liên Hiệp Pháp hành quân tấn công thượng du Bắc Việt. Một toán lính nhảy dù xuống địa phương Trình Diện, cách làng Thổ Tang 9 cây số; một toán khác nhảy dù xuống Đồi Me thuộc khu vực ga Chống (Bạch Hạc), cách làng Thổ Tang 3 cây số, cùng tiến vây chặt trụ sở UBKCHC huyện do Việt Minh đặt tại làng Thổ Tang.
Hay tin Pháp quân đổ bộ, dân làng Thổ Tang bỏ chạy hết, chỉ còn một số rất ít không chạy kịp, trong số đó có Nguyễn Văn Lâm, bị Pháp quân bắt tập trung ở đình làng. Pháp quân dụ Lâm suốt cả tiếng đồng hồ, nhưng Lâm nhất định không chịu theo, còn mắng lại:
- Gia đình tao là gia đình cách mạng, hai anh em tao đã chết bởi bàn tay chúng mày; tao không bao giờ lại đi theo quân cướp nước.
Lâm nhất định không theo, Pháp nhất định giết. Lâm trả lời:
- Nếu chúng mày muốn giết tao, hãy đưa tao về nhà hãy giết.
Theo ý muốn của Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân đưa về nhà. Đứng dưới cây dâu già, Lâm vạch áo phanh ngực cho Pháp bắn.
Giết xong Nguyễn Văn Lâm, Pháp quân quay vào đốt nhà cướp trâu, bắt lợn, gà, rồi kéo nhau đi. Hôm ấy là ngày 19 tháng 11 năm 1947.
Nguyễn Văn Nỉ, người em út của NguyễnThái Học vì còn nhỏ tuổi, nên mãi đến năm 1945 mới tham gia cách mạng. Được theo học nhiều lớp quân, chính của Đảng. Đến đầu năm 1948, Nguyễn Văn Nỉ theo các đồng chí rút sang Trung Hoa. Năm 1949, Hồng quân lan tràn khắp lục địa Trung Hoa, Nguyễn Văn Nỉ cùng một số đồng chí bị mắc kẹt không kịp trở về Việt Nam.
Gia đình Nguyễn Thái Học lại còn hy sinh cả người chú đồng chí là Nguyễn Quang Triểu, người ném bom Hà Nội đêm mồng 10 tháng 2 năm 1930, cùng lên máy chém với Nguyễn Văn Nho.
Gia đình Nguyễn Thái Học có một cháu trai độc nhất là Nguyễn Thái Tuấn, năm nay vào khoảng 20, là con của Nguyễn Văn Lâm, giòng máu cuối cùng của một gia đình hy sinh cả cho Tổ Quốc (1967).
Viết đến đây chúng tôi không thể không nói đến một chuyện đã xảy ra vào hồi năm 1953, để chứng tỏ tính tình cương trực của vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học. Nguyên vào hồi tháng 7 năm 1953, khi ấy Nguyễn Hữu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt kinh lý tỉnh Vĩnh Yên, qua phủ lỵ Vĩnh Tường (làng Thổ Tang), phái Quận trưởng vào mời vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học ra Quận đường để tiếp kiến nhưng vị từ mẫu ấy khước từ. Trước khi ra về, Nguyễn Hữu Trí trao hai ngàn đồng cho Quận trưởng nhờ đưa kính biếu nhưng vị từ mẫu ấy cũng nhất định không nhận mặc dầu Quận trưởng Vĩnh Tường đã cầu khẩn hết lời. Một lần khác, thấy vị từ mẫu của Nguyễn Thái Học làm ruộng nhưng không có trâu cày, Quận trưởng Vĩnh Tường đích thân dắt một con trâu đến kính biếu cũng bị từ chối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét