17 tháng 5, 2012

Văn Tế Nguyễn Thái Học và Cô Giang



Văn Tế Nguyễn Thái Học và Cô Giang

Cụ Phan Bội Châu bị Pháp giam lỏng tại Huế, nhưng vẫn nhận làm đảng trưởng danh dự Việt Nam Quốc Dân Đảng, sau khi cụ nghe 13 nhà Lãnh Đạo VNQDĐ bị lên đoạn đầu đài đền nợ nước, rồi kế đó Cô Nguyễn Thị Giang tự tử theo người yêu. Tại nhà giam Bến Ngự Huế cụ cảm khái Văn Tế Nguyễn Thái Học và Cô Giang…



Văn Tế Nguyễn Thái Học và Cô Giang

Phan Bội Châu cảm khái 1930

Than rằng:
Sóng nhân đạo ở hai mươi thế kỷ, bạn má hồng toan cướp gái làm trai – Gương nữ hùng trên một góc trời Nam, bọn da trắng phải ghê giòng giống Việt.
Trên quốc sử mực chàm giấy phấn, ong cả đoàn nhan nhản bầy nô, – Dưới Long Thành máu thắm cỏ xanh, gái đến thế rành rành chữ liệt.
Trăng thu mờ mịt, trông những buồn tênh! Người ngọc xa vời, nghĩ càng đau tuyệt.
Nhớ nữ liệt sĩ xưa:
Đất nhả tinh hoa – trời treo băng tuyết.
Vóc quần thoa nhưng chí khí tu mi – Thân khuê các mà can trường khí tiết.
Thuở bé nhờ ơn gia giáo, Hán học vừa thông – Tuổi xanh vào chốn học trường, Pháp văn cũng biết
Tang hải gặp khi xoay cuộc, ngó giang sơn luống những lòng đau – Trần ai tức lôí không người, thâý nô lệ giương đôi tròng ngút.
Xem sách Pháp từng đem óc nghĩ: Dan Đà, La Lan thuở nọ, chị em mình đã dễ ai hơn, – Giở sử nhà bỗng vỗ tay reo: Bà Trưng, Cô Triệu sau này, non nước ấy có đâu hồn chết.
Triều cách mạng đang dâng sùng sục, cát Vệ Tinh ngậm đầy trước miệng, mong thấy bể vùi, – Vai quốc dân nặng gánh trìu trìu, đá Oa Hùng dắp sẵn trong tay, nỡ xem trời khuyết.
Tức tội cường quyền – Thi gan sấm sét.
Khi nhập đảng tuổi vừa mười tám, cơ nữ binh đăng đội tiền phong; – Lúc tuyên truyền sách động ba quân, lưỡi biện sĩ trổ tài du thuyết.
Thổi gió phun mây từng mấy trận, nào Lâm Thao, nào Yên Bái, nữ tham mưu đưa đẩy đội hùng binh; – Vaò sinh ra tử biết bao phen, kia thành huyện, kìa đồn binh, cờ nương tử xông pha hùm rắn rết.
Nguyễn Thái Học trổ tài kiện tướng, nhờ có cô mà lông cánh thêm dài – Phạm thị Hào nổi tiếng trung trinh, em có chị mà xứng danh nữ kiệt.
Khốn nỗi thay!
Vận nước còn truân – Tai trời chửa hết!
Trắc trở buồm xuôi gió ngược, tài anh thư gặp bước gian truân. – Ngại ngùng nước biếc non xanh, tay chức nữ uổng công thêu dệt.
Nhưng hãy còn:
Thiết thạch tâm can, – Châu toàn bách chiết.
Thời như thế, việc đành phải thế, đoạn đầu đài mừng được thấy anh lên. – Sống là còn thác vẫn là còn, súng kề cổ không nhường cho giặc giết.
Tiếng súng lúc vang lên một phát, núi đổ sông nhào! – Hồn anh thư hẹn phút trùng lai, thần gào quỷ thét
Ôi thương ôi!
Khóc nữa mà chi! – Nói không kể xiết!
Một nén hương lòng, – Mấy lời thống thiết!
Bạn nữ lưu ai nối gót theo chân? – Nghĩa đoàn thể, xin từ đây cố kết!
Hỡi ơi! thương thay!



Hai bức thư của Cô Giang trước khi tuẩn tiết

Sau khi nghe tin Nguyễn Thái Học bị lên đoạn đầu đài đền nợ nước ngày 17-06-1930, Cô Giang tức Nguyễn Thị Giang vị hôn thê của Nguyễn Thái Học đã tức tốc lên Yên Bái chứng kiến các đồng chí và chính người yêu của mình bị chém đầu bởi quân Pháp cướp nước. Cô Giang đã quyên sinh để giữ vẹn lời thề. Trước khi tuẩn tiết, cô đã để lại một bức thư cho bố mẹ của Nguyễn Thái Học và một bức thư cho Nguyễn Thái Học. Dưới đây là nội dung hai bức thư đó. (Hình bên là chân dung của cô Nguyễn Thị Giang,1909-1930, người yêu và là đồng chí của đảng trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học)

Bức thư thứ nhất.

“ Ngày 17 tháng 6, 1930
Thưa Thầy, Mẹ,
Con chết là vì hoàn cảnh đã bó buộc con: không báo thù được cho nhà, rửa được nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở đền Hùng, giờ con tìm về chỗ quê cha, đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con!
Đứa con dâu thất hiếu kính lạy.”

Bức thư thứ hai.

“Anh đã là người yêu nước!
Không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước, Anh giữ lấy tấm linh hồn cao cả để về mà chiêu binh, rèn lính ở dưới suối vàng!
Phải chịu đựng nhục nhã, mới có ngày mong được vẻ vang! Các bạn đồng chí phải sống lại sau Anh, để đánh đổ cường quyền, mà cứu lấy đồng bào đau khổ!
Thơ:
Thân không giúp ích cho đời!
Thù không trả được cho người tình chung!
Dẫu rằng đương độ trẻ trung,
Quyết vì dân chúng thề lòng hy sinh.
Con đường tiến bộ mông mênh,
Éo le hoàn cảnh buộc mình biết sao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào
Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây!
Dẫu rằng chút phận thơ ngây,
Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên!
Chết đi dạ những buồn phiền,
Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình!
Quốc kỳ phất phới trên thành,
Tủi thân không được chết vinh dưới cờ.
Cực lòng nhỡ bước sa cơ!
Chết sầu, chết thảm, có thừa xót xa!
Thế ru? Đời thế ru mà?
Đời mà ai biết? Người mà ai hay?”
Nguyễn Thị Giang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét