Giá mà tháng Tư đừng đến… (tiếng nói trung thực bloggers)
Những blooger trong nước càng ngày càng nở rộ, những bài viết trên các blogger dần làm sáng tỏ cả một quá khứ bị đảng Cộng Sản Việt Nam khỏa lấp tuyên truyền dối trá…hôm nay nhân vào một blogger có một bài của Blogger Đinh Tấn Lực viết bài “GIÁ MÀ THÁNG TƯ KHÔNG ĐẾN” … Tôi lớn lên ở miền Bắc khi đọc bài này lòng tôi thật sự đau như cắt… và ước gì Tháng Tư đừng có đến trên đất nước Việt Nam. Mời qúy độc giả đọc để nhìn ra sự thật của giòng sinh mệnh dân tộc.
Lê Bi – 1990 – Tự thân
Năm nhuần, theo lịch tây, chỉ thêm mỗi ngày 29 cho tháng Hai. May thay! Bằng không, tính theo lịch ta, năm nhuần nhồi thêm nguyên cả tháng, mà như năm nay, đến những 2 tháng Tư. Chết dở, với biết bao hoài niệm!
Người ta thường nháy mắt pha trò: Bao giờ cho tới tháng Mười? Lại lắm kẻ nghiêm mặt hỏi: Bao giờ cho hết tháng Tư? Nghe thoáng cứ như thêm một vết dao cùn cứa thành sẹo mới, trong tim, hàng năm.
Mọi chữ “nếu” đều có cái giá của nó. Có cái có thể trả ngay bằng tiền tươi. Có cái được trả bằng tương lai (bị nhấn ngược vào quá khứ) của một dân tộc. Thành ra, mơ rằng “Nếu VN chẳng có 30 tháng Tư” thì không khác nào nằm mộng “Nếu Kampuchia chẳng có những cánh đồng sọ người”.
Song, cứ thử đi (chẳng thiệt đồng xu teng nào đâu mà ngại), hãy mường tượng thử một bối cảnh khác: “Nếu, sau khi ký Hiệp Định Paris1973, VN ta ai về chăm lo nhà nấy, thì mặt mày đất nước bây giờ ra sao nhỉ?”.
“Mỗi ngày tôi để lại một vạt lo toan, một niềm khắc khoải”
Hoàng Trần Cương – Dấu vết tháng ngày
Trước tiên, hẳn rằng đã không có “triệu người vui và triệu người buồn”. Vui/buồn vẫn đó, vẫn vậy, như vốn hằng phải có, cả từ những điều nhỏ nhặt trong đời sống, nhưng nhất định là người Việt không chia phe vui/buồn, trên cùng một biến cố.
Trong suốt hai năm 73-75, đã không có thêm máu đổ xương rơi. Các nghĩa trang dọc Trường Sơn đỡ chật. Bức tượng đồng Thương Tiếc ở Biên Hòa vẫn còn nguyên. Một phần quân đội (cả hai bên) buông súng về quê cầm cuốc, hay vào khu chế xuất cầm chuột vi tính…
Dân số hai miền ắt đã chênh lệch hẳn, bởi chủ trương “gia đình hai con” tránh nhân mãn (nhân tiện, tránh cả bế tắc giao thông) ở miền ngoài; và bởi miền trong “giàu của chẳng bằng giàu con”, lại chẳng bị “mất tích” gần hai triệu người ngoài biển khơi và hàng chục vạn khác trong rừng Kăm.
Gần nửa triệu nhân tài người Việt cũng đã chẳng phải thui thân chột phận nơi rừng sâu nước độc của các trại tù lao cải. Hoặc, hơn nửa triệu khác đã nghiến răng cắn lợi đóng góp nguồn vốn tri thức để giúp phát triển các đại công ty… nước ngoài.
Thanh niên VN đã chẳng bị xuất khẩu thành lao nô trả nợ chiến phí cho Liên Xô và các nước Đông Âu. Cũng chẳng bị Liên Xô xuất khẩu sang ngăn chận hiểm họa diệt vong dân tộc xứ Chùa Tháp, và tất nhiên, nhờ vậy, chẳng phải điều quân đón đỡ trận chiến “giáo trừng” của bọn bá quyền phương Bắc đến long trời lở đất suốt sáu tỉnh dọc biên. Biết đâu chừng đã tránh nốt được trận bão Gạc Ma.
Phân nửa thác Bản Giốc, nguyên ải Nam Quan, một phần lãnh thổ dọc biên cùng một phần Vịnh Bắc bộ có thể vẫn không khỏi trở thành miền đất “lạ”, nhưng ngược lại, giặc Bắc không có lý cớ và quyền lực gì để chiếm thêm mấy đảo thuộc cụm Trường Sa. Cũng chẳng biết chừng miền trong đã giải quyết êm đẹp việc thu hồi các đảo thuộc cụm Hoàng Sa.
Những cách biệt khác?
Dựa trên bản phóng chiếu vị trí và khả năng của miền Nam Việt Nam so với láng giềng trước 1975, có thể nào người ta kể ra đại loại sự cách biệt trọng một số lãnh vực gần gạnh trước mắt của miền trong:
“Mẹ em đây người dân công tải đạn
Mẹ em đây người nữ cứu thương
Cha em đây giữa chiến trường
Mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lui”
Tố Hữu – Em bé Triều Tiên
(thơ tên này chỉ biết chém giết tồi tệ … vietquoc.org admin)
Dễ mường tượng (và có nhiều xác suất xảy ra) nhất cho trường hợp tôn trọng Hiệp Định Paris 1973, cho dù chưa hẳn một giải pháp tối ưu, chính là mô thức Nam-Bắc Hàn.
Vẫn dựa trên bản phóng chiếu vị trí và khả năng của miền Nam Việt Nam so với Mã Lai/Thái Lan/Đài Loan/Nam Hàn trước 1975, đặc biệt là dựa trên dữ kiện nghiên cứu công phu của cố GS Đặng Phong, trong suốt chiều dài 1975-2010, thì ngoài những cách biệt cơ bản nói trên, tình hình có thể còn thêm một số điểm có thể ghi nhận được từ miền trong:
- Một dàn chuyên viên vi tính (bộ Giáo dục/bộ Tổng tham mưu/bộ Tư lệnh Hải quân) từ thời IBM mainframe S360-67 chạy bằng CPU IBM2030 trên OS/VS1 với hệ nhập dữ kiện đầu vào bằng thẻ đục lỗ (Herman Hollerith punch cards), đầu ra băng từ IBM 2401 (to bằng cái tủ lạnh), sử dụng hệ mẫu tự EBCDIC và các loại ngôn ngữ vi tính căn bản Assembler, Basic, Pascal, Fortran, RPG, Cobol, online CICS…;
- Một đội ngũ hàng vạn sinh viên du học hàng năm nhiều ngành nghề ở các nước tân tiến (Âu/Mỹ) và cả chương trình Colombo (Australia/New Zealand). Với nhịp độ đó, nhân suốt chiều dài 39 năm gộp lại và đào tạo thêm trong nước, tỷ lệ chuyên viên kỹ thuật cao của VN không thể kém hơn Nam Hàn/Đài Loan… và có khi đuổi kịp Nhật Bản (như Nam Hàn đang đạt, nhân cơ hội 2 thập niên đình động của Nhật).
- Một hãng xe LaDalat-Citroen, đi vào hoạt động cùng thời với Hyundai Motor của Nam Hàn;
- “Đôi khi ta thấy trong cùng một quốc gia có sự phối hợp giữa tài nguyên phong phú, một hệ thống hành chính có quyết tâm với những chính sách kinh tế hợp lý một dân tộc thông minh, khéo léo, và hết sức dẻo dai, với một khả năng cố gắng bền vững, một quyết tâm mãnh liệt và tha thiết bảo tồn tự do của mình… Khi có một kết hợp như vậy, như hiện đang có ở Việt Nam, thì chỉ cần một nguồn tài chính từ ngoài vào làm vai trò tác động, để nối kết tất cả những yếu tố này lại với nhau thì có thể có những kết quả thật là xuất sắc”. Đại sứ Martin – 1973 – trả lời phỏng vấn US News & World Report
Với ngần đó ưu thế, người ta không ngại ngoa ngữ khi bảo rằng danh sách các tiểu hổ châu Á vào cuối thế kỷ 20 hẳn phải có thêm VNCH.
Nghĩa là, Sài Gòn vẫn vang danh Hòn ngọc Viễn đông.
Nghĩa là, giờ này, cạnh tranh với Asus Zenbook hẳn đã có VietBook; với Acer Iconia Tab ắt có VietTab; với Samsung Galaxy Note ắt có VietNote; với Toyota Innova biết đâu đã có LaDalat Prenn v.v…
“Không ai có thể sống an lành với một đất nước chia đôi”
Wim Winders – 1986 – Tác giả cuốn phim quay lén Những Đôi Cánh Ham Muốn (về đời sống Đông Bá Linh, 3 năm trước khi bức tường ô nhục sụp đổ)
Cũng không khó mường tượng, nhưng chẳng ai dám nói biết rõ xác suất khả thi cao thấp ra sao, là trường hợp hai miền Việt Nam, sau vài thập niên chân thật gìn giữ những cam kết trong hiệp ước Paris 1973, đã thống nhất theo mô thức Đông Đức – Tây Đức.
Tiếc thay!
Thực tế ngược hẳn.
Nhà thơ Lê Bi, như được trích ở dòng đầu bài, hoàn toàn đúng, nhưng chưa đủ. Có những vô ích (chen lẫn vô học/vô hậu/vô lối và lắm thứ vô duyên khác nữa đã) làm nên lịch sử. Nó cào bằng miền Nam, cả kinh tế, chính trị, xã hội, lẫn tính/tình người, cho bằng miền Bắc muôn năm vung tay dậm chân hô hào tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tiếc thay!
Lịch sử không cho lật ngược trang, mà chỉ đòi/đợi những con người dám đứng lên/bước tới.
Bởi, đã 2012, đã quá trễ cho chuyến tàu thần long mãnh hổ bên mép Thái Bình Dương.
Chỉ mong là không một ai phải chép miệng/thở dài lần nữa vào những năm 2022 hay 2032, rằng, giá mà lãnh đạo Hà Nội tỉnh giấc, dám đặt tương lai đất nước và dân tộc lên trên chính mình hay những biệt thự dát vàng có vườn rau sạch hoặc những nhà thờ họ nguy nga… từ thời 2012…
“Vì đã nghe ra từ xương máu muôn dân
Là thương cả bốn ngàn năm đang cùng bước tới
Những bước hài hòa từ một xuất xứ lương tâm”
Lê Bi – 1982 – Sử mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét